Công bố thông tin doanh nghiệp; Thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW và Nghị quyết 19-NQ/TW; nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế, xã hội và dân chủ hoá. Rèn luyện, bồi dưỡng đạo đức Với khát vọng tiên phong cùng với chiến lược đầu tư phát triển bền vững, mục tiêu của ASTEC là một trong những công ty phát triển hàng đầu tại Việt Nam và vươn ra các nước trong khu vực về lĩnh vực cung cấp các giải đáp công nghệ cao. ASTEC tin tưởng sẽ tạo nên Để thu thập thông tin thị trường, doanh nghiệp có thể tiến hành thu thập thông tin thường xuyên thông qua đội ngũ bán hàng hoặc điểm bán, cũng như tiến hành các nghiên cứu chính thống để thu thập thông tin thị trường. Các công nghệ mới như mạng xã hội, AI, Big Data giúp thu thập thông tin quy mô lớn với hàng triệu khách hàng một cách thuận lợi hơn. Họp mặt kỷ niệm 92 năm Ngày Truyền thống công tác dân vận của Đảng. BDK.VN - Chiều 14-10-2022, Ban Dân vận Tỉnh ủy tổ chức họp mặt kỷ niệm 92 năm Ngày Truyền thống công tác dân vận của Đảng (15-10-1930 - 15-10-2022) và giao lưu gương điển hình thi đua "Đồng khởi mới". Cùng với sự phát triển ''chóng mặt'' của công nghệ thông tin, nền tảng Blockchain xuất hiện đã trở thành một xu hướng mới được ứng dụng rộng rãi cho các ngành nghề như tài chính ngân hàng, điện tử viễn thông, kế toán kiểm toán. Vậy Blockchain là gì? Công nghệ blockchain là gì? Khái niệm về Blockchain Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd Hỗ Trợ Nợ Xấu. Mặt tác hại của thời đại số, công nghệ thông tin mang lại với con người Những triệu chứng chỉ xuất hiện trong kỉ nguyên công nghệ là mặt trái của sự hiện đại và Internet đối với đời sống của con người. Công nghệ hiện đại thực sự đã thay đổi cuộc sống của chúng ta bằng cách mang lại những trải nghiệm mới mẻ, tiện ích và nhanh hơn. Thế nhưng, không có điều gì là hoàn hảo, mặc dù lợi ích đã lấn át đi một số điểm trừ mang lại, công nghệ cũng đã khai sinh ra không ít những “căn bệnh” mà con người có thể đang mắc phải mà không hề hay biết. 1. Phantom Ringing Syndrome Triệu chứng Não bạn được kích hoạt cảm nhận rung của điện thoại nhưng trong thực tế điện thoại không hề rung. Đã bao giờ bạn vội vàng thò tay vào túi quần để lấy chiếc điện thoại vì rõ ràng vừa cảm thấy nó rung nhưng khi nhìn vào màn hình thì lại không thấy bất cứ cuộc gọi đến, tin nhắn hay thông báo nào chưa? Nghe thì có vẻ kì lạ nhưng đây lại là một căn bệnh khá phổ biến đối với người dùng điện thoại. Theo Giáo sư Larry Rosen, tác giả cuốn sách iDisorder, 70% người dùng thường xuyên sử dụng điện thoại thừa nhận mình mắc phải triệu chứng kể trên. Giáo sư Larry cũng dự đoán thêm, trong tương lai không xa khi những phụ kiện công nghệ mang mặc xuất hiện trên thị trường đại trà. Hội chứng này sẽ nhanh chóng phát triển thêm nhiều biểu hiện khác. Đơn cử như sau một thời gian dài sử dụng Google Glass, rất có thể người ta sẽ có xu hướng nhìn thấy một thứ mà thực ra thứ đó đang không hề ở trước mắt họ. 2. Nomophobia Triệu chứng Cảm thấy bồn chồn khi không được tiếp xúc với các thiết bị di động. Nomophobia là viết tắt của “No-mobile phobia”. Nomophobia là cảm giác lo lắng tăng lên dần mà một số người mắc phải khi không được ở gần chiếc điện thoại của mình và sự rối loạn này thực sự có thể có những ảnh hưởng tiêu cực khá trầm trọng lên đời sống người mắc phải. Căn bệnh thời đại số kể trên đang ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm khi ngày càng có nhiều các trung tâm phục hồi mọc lên và phác đồ điều trị được phát triển để xử lí nó. 3. Cybersickness Triệu chứng Cảm thấy mất định hướng và choáng váng khi tương tác với một môi trường hay phụ kiện số nhất định. Trong khi, một số người dùng tỏ ra vô cùng thích thú với giao diện phẳng, rực rỡ và hoàn toàn mới của iOS thì không ít người lại cảm thấy khó chịu, chóng mặt, nôn nao khi tương tác với hệ điều hành mới này. Giải thích cho hiện tượng này, các nhà nghiên cứu cho hay đây là kết quả của các hiệu ứng mới được bổ sung trên iOS 7 như parallax viewing hay hiệu ứng zoom khi mở ứng dụng. Theo đó, đây chính là ví dụ mới nhất của căn bệnh “Cybersickness”. Cụ thể, căn bệnh này lần đầu tiên được đề cập đến vào năm 1990 để miêu tả cảm giác mất định hướng khi một người tiếp xúc với hệ thống mô phỏng thực tế ảo lúc bấy giờ. Sự nôn nao được cho là đến từ cảm giác chóng mặt do sự di chuyển mà não cảm nhận trong khi ta lại đang đứng yên. 4. Facebook Depression Triệu chứng Sự chán nản với căn nguyên đến từ mạng xã hội Facebook Loài người là một loài sinh vật bậc cao có tính xã hội lớn, do đó, rất nhiều người đã nghĩ rằng tăng giao tiếp trên mạng xã hội sẽ làm con người vui hơn nhưng thực tế thì ngược lại. Một nghiên cứu của trường Đại học Michigan, Hoa Kì đã khẳng định rằng sự thất vọng, buồn chán ở người trẻ tỉ lệ thuận trực tiếp với khoảng thời gian họ dành ra lang thang trên Facebook. Trong đó một lí do có thể đến từ việc mọi người thường có xu hướng đăng những điều vui vẻ, hoàn hảo lên Facebook do đó người khác có thể sẽ lầm tưởng rằng tất cả mọi người đều dường như có một cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ hơn họ. Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng nói thêm rằng bạn có thể giải quyết được vấn đề trên bằng cách duy trì cân bằng cuộc sống trên mạng xã hội và cuộc sống ngoài đời thực để hiểu hơn và có cái nhìn đúng hơn về những người bạn của mình. 5. Internet Addiction Disorder Triệu chứng Liên tục sử dụng Internet mặc ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe. Internet Addiction Disorder tạm dịch rối loạn hành vi nghiện Internet ám chỉ trực tiếp đến thời lượng sử dụng Internet hàng ngày vượt quá mức độ cho phép của một cá nhân. Nói về hậu quả của căn bệnh này, các nhà nghiên cứu cho rằng nó sẽ tác động tiêu cực không ít đến sự tự tin và năng suất làm việc của một người. 6. Online Gaming Addiction Triệu chứng Có thói quen chơi game trực tuyến nhiều và không lành mạnh. Theo một nghiên cứu năm 2000 được thực hiện bởi chính phủ Hàn Quốc, 8% dân số nước này thuộc độ tuổi từ 9 đến 39 mắc phải một trong hai căn bệnh hoặc là nghiện Internet hoặc là nghiện chơi game online. Tình trạng này nghiêm trọng đến mức họ đã phải cắt kết nối Internet cho đối tượng người dùng dưới 16 tuổi từ nửa đêm đến 6 giờ sáng. Trên thực tế thì rất nhiều các nguồn nghiên cứu đều cho rằng nghiện game là một nhánh nhỏ của nghiện Internet và hậu quả của chúng thì tương tự nhau. 7. Cyberchondria Triệu chứng Có xu hướng tin rằng mình bị mắc bất cứ thứ bệnh gì đọc được khi online. Cơ thể con người là một tập hợp của những bất ngờ và ngẫn nhiên có thể cho chúng ta các trải nghiệm đau, nhức… mỗi ngày. Hầu hết những cảm giác khó chịu đó đều không có gì quá nghiêm trọng và sẽ tự biến mất trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, với một số người, mọi chuyện có thể sẽ thành ra rất khác bởi một nguồn kiến thức y học rộng lớn trôi nổi trên Internet. Bạn bị đau đầu và quyết định sẽ tìm thử xem nguyên nhân là gì. Vô tình , một trang web có đề cập đến đau đầu là triệu chứng u não. Bạn giật mình và bắt đầu lo sợ mình đang mắc phải thứ bệnh trầm trọng này? Đây chính là xu hướng của một người mắc phải hội chứng Cyberchondriac thường tưởng tượng. Năm 2008 thậm chí Microsoft đã tiến hành hẳn một nghiên cứu khá dài hơi về ảnh hưởng của việc tự khám bệnh bằng cách tìm kiếm thông tin trên Internet có thể dẫn đến những kết luận tồi tệ ra sao của người dùng. 8. Google Effect Triệu chứng Có xu hướng tự động nhớ ít thông tin hơn bởi mặc định tất cả đều có trên Google sau một vài cú click chột. Nhờ có Internet, con người có thể nhanh chóng tiếp cận với tri thức nhân loại, tuy nhiên, mặt trái của nó đã làm cho chúng ta trở nên lười suy nghĩ và tư duy hơn. Theo Giáo sư Rosen, hiệu ứng Google không hẳn là một điều quá tệ, tuy nhiên, trong một vài trường hợp nhất định nó sẽ mang lại những kết quả tiêu cực. Ví dụ như, một đứa trẻ không chịu nghe giảng trên lớp bởi mặc định cậu cho rằng tất cả những điều đó đều có thể nhờ các công cụ tìm kiếm tìm ra được. Công nghệ ở xung quanh chúng ta ở khắp mọi nơi, từ các thiết bị đơn giản như điện thoại thông minh, máy tính xách tay và TV cho đến công nghệ nền mà chúng ta thậm chí không nhận thấy. Nó sẽ không sớm đi đến bất cứ đâu, có nghĩa là chúng ta phải làm quen với nó. Một khi chúng ta hiểu rõ việc sử dụng công nghệ đúng cách, nó có thể cải thiện cuộc sống của chúng ta. Mặt khác, công nghệ cũng có thể khiến cuộc sống của chúng ta khó khăn hơn. Cho dù công nghệ có tác động tích cực hay tiêu cực đến cuộc sống của chúng ta, tất cả phụ thuộc vào cách chúng ta sử dụng nó. Vì vậy, chúng ta hãy xem xét một số khía cạnh tích cực và tiêu cực của công nghệ trong cuộc sống của chúng ta, phải không? Tích cực của công nghệ trong cuộc sống của chúng ta1. Công nghệ thúc đẩy kinh doanh2. Công nghệ làm cho việc mua sắm trực tuyến trở nên khả thi3. Công nghệ có giáo dục tiên tiến4. Công nghệ làm cho cuộc sống hàng ngày trở nên tốt đẹp hơn Tiêu cực của công nghệ trong cuộc sống của chúng ta1. Công nghệ gây ra các vấn đề về sức khỏe2. Công nghệ tạo ra sự không an toàn cho công việc3. Sản phẩm công nghệ kém tuổi thọ4. Công nghệ tạo ra thông tin sai lệch và tin tức giả mạo Công nghệ là một lợi ích và khó khăn cho xã hội của chúng ta Không nghi ngờ gì nữa, công nghệ đã khiến cuộc sống của chúng ta trở nên dễ dàng hơn trong hai thập kỷ qua. Từ việc kết nối với mọi người trên toàn cầu từ sự thoải mái trong ngôi nhà của bạn đến điều hành một doanh nghiệp chính thức mà không có không gian vật lý, công nghệ đã tác động tích cực đến cuộc sống của chúng ta theo một số cách. Vì vậy, hãy đọc tiếp phần dưới đây 1. Công nghệ thúc đẩy kinh doanh Nhiều cải tiến và cải tiến công nghệ mới được tạo ra bởi và cho các doanh nghiệp. Tại sao? Bởi vì các công ty luôn tìm cách nâng cấp sản phẩm và dịch vụ của mình để thu lợi nhuận. Công nghệ mới tiếp tục ra đời nhanh hơn chúng ta có thể theo kịp. Mục đích là thúc đẩy kinh doanh và làm cho việc quản lý hàng ngày của doanh nghiệp có hệ thống, cấu trúc và thành công hơn. Công nghệ đã thúc đẩy các doanh nghiệp bằng cách cải thiện quy trình tuyển dụng, thu thập và phân tích dữ liệu kinh doanh không có lỗi cũng như giao tiếp tốt hơn với khách hàng và đối tác. 2. Công nghệ làm cho việc mua sắm trực tuyến trở nên khả thi Những tiến bộ trong công nghệ đã giúp nhiều người truy cập Internet dễ dàng hơn, dẫn đến việc mua sắm trực tuyến trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Hiện nay, hầu hết mọi người thích mua sắm trực tuyến mà không cần ra khỏi nhà vì sự tiện lợi tuyệt đối của nó. Thay vì lãng phí hàng giờ trong trung tâm mua sắm, công nghệ làm cho việc mua sắm trở nên đơn giản. Một số lợi ích của mua sắm trực tuyến bao gồm các sản phẩm rẻ hơn, tiết kiệm thời gian, nhiên liệu và năng lượng, các mặt hàng dễ tìm hơn, nhiều loại trực tuyến hơn và không bị áp lực thêm. Amazon là một trang web tuyệt vời để thực hiện về cơ bản tất cả các hoạt động mua sắm trực tuyến của bạn. Đây là một trong những nền tảng mua sắm trực tuyến phổ biến nhất vì thực tế bạn có thể tìm thấy mọi thứ bạn đang tìm kiếm, từ hàng tạp hóa đến quần áo. 3. Công nghệ có giáo dục tiên tiến Một trong những lĩnh vực bị đánh giá thấp nhất của công nghệ đã được cải thiện đáng kể trong vài năm qua là giáo dục. Công nghệ chắc chắn mang lại lợi ích cho những người trong thế giới kinh doanh, nhưng nó lại ảnh hưởng lớn đến giáo dục. Một vài ví dụ bao gồm sự sẵn có của các khóa học trực tuyến, khả năng tiếp cận các hội thảo trên web và các nguồn tài nguyên trực tuyến không giới hạn để nghiên cứu. Trước khi có công nghệ, bạn phải đến lớp, tham gia một cuộc họp hoặc đến thư viện để nghiên cứu. Giờ đây, giáo dục dễ dàng hơn cho tất cả mọi người, bất kể bạn sống ở đâu. Các lớp học trực tuyến đã giúp tất cả sinh viên có thể đăng ký học mà không cần rời khỏi nhà của họ. Ngày nay, bạn có thể tìm thấy một số trang web tuyệt vời cho các khóa học đại học miễn phí trực tuyến, chẳng hạn như Udemy — một trang web tuyệt vời cung cấp hàng nghìn khóa học miễn phí và trả phí để bạn lựa chọn. Cho dù bạn muốn tạo trò chơi thực tế ảo hay trở thành một huấn luyện viên yoga, Udemy đều có một khóa học hoàn hảo cho bạn. 4. Công nghệ làm cho cuộc sống hàng ngày trở nên tốt đẹp hơn Hầu hết công nghệ ngày nay được tạo ra để cải thiện doanh nghiệp và tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên, công nghệ cũng có thể làm cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta tốt hơn rất nhiều. Công nghệ đã tạo ra một tác động tích cực to lớn đến cuộc sống hàng ngày của con người. Một số ví dụ tích cực bao gồm những cải tiến trong hệ thống giao thông. Bullet Train là một công nghệ tuyệt vời có thể di chuyển nhanh hơn sáu lần so với tàu thông thường. Hãy nghĩ về sự ra đời của ô tô tự lái chúng chưa từng được biết đến cách đây vài năm, và bây giờ chúng đã trở thành hiện thực. Bên cạnh giao thông, công nghệ cũng có ảnh hưởng tích cực đến các mặt hàng gia dụng. Ví dụ, nhà thông minh hiện nay đã trở nên phổ biến. Các trung tâm thông minh cho phép các hộ gia đình kết nối các thiết bị và đồ dùng của họ, giúp cuộc sống trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Tiêu cực của công nghệ trong cuộc sống của chúng ta Dù chúng ta đánh giá cao công nghệ vì sự tiện lợi mà nó mang lại cho cuộc sống của chúng ta, thì một số khía cạnh của nó đã tác động tiêu cực đến xã hội của chúng ta theo nhiều cách. 1. Công nghệ gây ra các vấn đề về sức khỏe Khi công nghệ tiến bộ, chúng ta giờ đây kết nối với nhau hơn bao giờ hết và nó đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Đó là lý do tại sao công nghệ có thể tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất của chúng ta. Những vấn đề sức khỏe thể chất này có thể nghiêm trọng. Tuy nhiên, bạn có thể tránh hầu hết chúng bằng cách tạo ra những thói quen công nghệ lành mạnh thay vì những thói quen xấu. Ngoài việc tạo ra thói quen ngủ không lành mạnh, các thiết bị điện tử có thể gây mỏi mắt, tư thế xấu và tăng cường hoạt động, dẫn đến các vấn đề sức khỏe như béo phì. Nghỉ ngơi thường xuyên với các thiết bị này có thể giúp bạn tránh những vấn đề sức khỏe này. Bạn có thể tìm thấy một loạt ứng dụng nhắc nhở bạn nghỉ giải lao thường xuyên. Một ứng dụng phổ biến được sử dụng có tên là Focus Keeper. Ứng dụng này sẽ giúp bạn giảm mỏi mắt do kỹ thuật số, giải lao thường xuyên và ngăn chặn tình trạng kiệt sức với công nghệ. Tải xuống Focus Keeper dành cho Android iOS Miễn phí, mua hàng trong ứng dụng có sẵn 2. Công nghệ tạo ra sự không an toàn cho công việc Mất việc và giảm quy mô là hai tác động tiêu cực đáng kể của công nghệ. Do những tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ như tích hợp AI, việc tự động hóa và hoàn thành nhiệm vụ đã trở nên dễ dàng. Trong thời đại ngày nay, hầu hết các công ty cần phải cập nhật công nghệ mới nhất, nhưng trong quá trình này, những nhân viên có tay nghề thấp, như công nhân nhà máy và nhân viên thu ngân, sẽ bị thay thế. Máy móc hiện có thể thực hiện những công việc mà cho đến nay chỉ có con người mới có thể làm được, điều này tạo ra sự thiếu hụt lớn về việc làm. Điểm mấu chốt là mọi người không còn cần thiết cho các nhiệm vụ công việc nữa vì công nghệ đã trở nên hiệu quả như thế nào. 3. Sản phẩm công nghệ kém tuổi thọ Công nghệ phát triển vô cùng nhanh chóng, vì vậy các thiết bị kỹ thuật số và tiện ích mà chúng ta sử dụng có tuổi thọ ngắn và trở nên lỗi thời trong vài tháng. Vì những thiết bị này rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta nên chúng ta cần phải bảo trì và nâng cấp chúng thường xuyên. Bên cạnh việc bảo trì và nâng cấp, những phần công nghệ này có thể trở nên lỗi thời và bị gạt sang một bên bởi các phiên bản mới hơn, tiên tiến hơn. Các sản phẩm công nghệ không có tuổi thọ cao, vì vậy chúng có thể tốn kém và dẫn đến chất thải điện tử không cần thiết. Thay vì ném các thiết bị cũ của bạn đi hoặc ném chúng vào tủ, hãy sử dụng một trang web như Decluttr. Trang web này giúp bạn dễ dàng mua và bán công nghệ đã qua sử dụng của mình trực tuyến. 4. Công nghệ tạo ra thông tin sai lệch và tin tức giả mạo Sự lan truyền của thông tin sai lệch và tin tức giả trên mạng không có gì là mới. Trên thực tế, nó đã diễn ra trong nhiều năm. Tuy nhiên, với tất cả những phát triển thường xuyên xảy ra trong công nghệ, việc xác định đâu là thật và đâu là giả đã trở nên khó khăn hơn. Vì rất nhiều người không thể phân biệt được thông tin nào là thực và thông tin nào không, nên nó tạo ra rất nhiều sự hoài nghi và hiểu lầm về các chủ đề quan trọng. Điều này có thể đặc biệt có hại khi liên quan đến các vấn đề chính trị và tin tưởng vào các phương tiện truyền thông. Một ví dụ gần đây về việc những tiến bộ công nghệ đang ảnh hưởng tiêu cực đến chúng ta như thế nào là việc sử dụng deepfakes. Một số sự cố sâu sắc tiêu cực đã nổi lên gần đây và ngày càng khó phát hiện ra chúng. Những sự cố này có thể cảnh báo chúng ta về rủi ro có thể xảy ra với công nghệ trong tương lai. Nếu bạn cảm thấy khó khăn trong việc phát hiện tin tức giả và thông tin sai lệch, một nền tảng trực tuyến như Credder là một công cụ tuyệt vời để sử dụng. Credder sẽ giúp bạn tránh tin tức giả mạo và thông tin sai lệch vì nó chỉ theo dõi tin tức và thông tin được cung cấp bởi các nguồn đáng tin cậy. Công nghệ là một lợi ích và khó khăn cho xã hội của chúng ta Nhìn chung, công nghệ thật tuyệt vời và nó đã thay đổi thế giới trở nên tốt đẹp hơn, từ việc cải thiện cuộc sống hàng ngày của chúng ta đến việc xây dựng các doanh nghiệp tốt hơn. Phần lớn các tác động xấu của công nghệ bắt nguồn từ việc lạm dụng nó. Cách chúng ta chọn để sử dụng công nghệ có thể giúp ích hoặc gây hại cho bản thân và những người khác. Thay vì đổ lỗi cho công cụ, chúng ta cần sử dụng công nghệ một cách lành mạnh và có kỷ luật hơn. Bằng cách này, công nghệ có thể tiếp tục mang lại lợi ích cho cuộc sống của chúng ta. 7 Tác động tiêu cực của mạng xã hội đối với con người và người dùng Nếu bạn là một người sử dụng mạng xã hội nhiều, thật khôn ngoan khi nghĩ về những tác động tiêu cực của mạng xã hội đối với bạn và đồng nghiệp của bạn. Đọc tiếp Giới thiệu về tác giả Christine người La Mã 27 bài báo đã xuất bản Christine là một người sáng tạo nội dung với hơn năm năm kinh nghiệm viết về công nghệ cũng như một loạt các chủ đề khác. Cô ấy là một đầu bếp tại gia, một bà mẹ thực vật và người nếm rượu tự xưng. Xem thêm từ Christine Romans Theo dõi bản tin của chúng tôi Tham gia bản tin của chúng tôi để biết các mẹo công nghệ, đánh giá, sách điện tử miễn phí và các ưu đãi độc quyền! Bấm vào đây để đăng ký Tóm tắt Công nghệ thông tin và truyền thông ICT được xem như một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội. Tại Việt Nam, ICT đã được quan tâm đầu tư phát triển, nhưng các đánh giá định lượng về tác động của ICT tới nền kinh tế còn rất hiếm. Bài báo này hệ thống hóa các đánh giá tác động của ICT tới nền kinh tế Việt Nam ở các khía cạnh vĩ mô, ngành, và doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng ICT đã có tác động tích cực đến kinh tế Việt Nam. Tuy vậy, khi đi vào phân tích so sánh với các nước trong khu vực thì mức đóng góp của ICT tới tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động, tác động lan tỏa dưới dạng ICT là yếu tố công nghệ đầu vào của sản xuất, cũng như tác động của ICT tới thay đổi mô hình kinh doanh và mô hình tổ chức của doanh nghiệp đều vẫn còn hạn chế. Từ đó, tác giả phân tích và đưa ra gợi ý đối với các doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách nhằm khai thác tốt hơn ICT cho phát triển doanh nghiệp và kinh tế Việt khóa ICT, tác động, kinh tế Việt Nam Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free Tạp chí Khoa học Đại học Huế Kinh tế và Phát triển; ISSN 2588–1205 Tập 128, Số 5D, 2019, Tr. 5–19; DOI * Liên hệ ducdtv Nhận bài 24–6–2019; Hoàn thành phản biện 16–7–2019; Ngày nhận đăng 24–7–2019 TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM Đặng Thị Việt Đức* Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông 122 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Tóm tắt Công nghệ thông tin và truyền thông ICT được xem như một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội. Tại Việt Nam, ICT đã được quan tâm đầu tư phát triển, nhưng các đánh giá định lượng về tác động của ICT tới nền kinh tế còn rất hiếm. Bài báo này hệ thống hóa các đánh giá tác động của ICT tới nền kinh tế Việt Nam ở các khía cạnh vĩ mô, ngành, và doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng ICT đã có tác động tích cực đến kinh tế Việt Nam. Tuy vậy, khi đi vào phân tích so sánh với các nước trong khu vực thì mức đóng góp của ICT tới tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động, tác động lan tỏa dưới dạng ICT là yếu tố công nghệ đầu vào của sản xuất, cũng như tác động của ICT tới thay đổi mô hình kinh doanh và mô hình tổ chức của doanh nghiệp đều vẫn còn hạn chế. Từ đó, tác giả phân tích và đưa ra gợi ý đối với các doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách nhằm khai thác tốt hơn ICT cho phát triển doanh nghiệp và kinh tế Việt Nam. Từ khóa ICT, tác động, kinh tế Việt Nam 1 Đặt vấn đề Công nghệ thông tin và truyền thông Information Communication Technology – ICT đã trở thành công nghệ nền tảng của nền kinh tế trong mấy thập kỷ qua. Sự lan tỏa và ứng dụng rộng rãi của mạng viễn thông, Internet, di động, sự phát triển của các công nghệ mới như Internet vạn vật Internet of Things – IOT, điện toán đám mây, khoa học dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo đều thể hiện sức ảnh hưởng của ICT tới các hoạt động kinh tế. Công nghệ thông tin và truyền thông hiện hữu trong hoạt động của mọi doanh nghiệp. Gần như tất cả các doanh nghiệp hiện nay đều sử dụng máy tính, kết nối Internet và sử dụng các ứng dụng ICT. Thực tế này đã thúc đẩy các nghiên cứu đánh giá tác động của ICT tới nền kinh tế tại các quốc gia. Tuy vậy, các nghiên cứu đánh giá vẫn chưa được thực hiện đầy đủ, đặc biệt tại các nước đang phát triển [10]. Tác động của ICT là khác nhau tại các quốc gia khác nhau và trong nhiều trường hợp, tác động đó là không đáng kể [12]. Hơn nữa, các nghiên cứu tác động của ICT tới nền kinh tế thường chỉ tập trung vào một vài khía cạnh nên sẽ thiếu bức tranh tác động tổng thể [4, 18]. Do vậy, tác động thực tế của ICT tới các hoạt động kinh tế vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu. Tại Việt Nam, công nghệ thông tin và truyền thông được chính thức xem như một điểm chốt cho phát triển kinh tế xã hội từ năm 1993 thông qua Nghị quyết số 49/CP của Chính phủ về 6 phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam trong những năm 90. Cho đến nay, Việt Nam liên tục khẳng định ICT là tất yếu đối với phát triển kinh tế. Tuy vậy, các đánh giá định lượng về tác động của ICT tới nền kinh tế còn rất hiếm. Mục tiêu của bài báo này là hệ thống hóa các đánh giá tác động của ICT tới nền kinh tế, bao gồm cả đánh giá ở mức vĩ mô, ngành và vi mô. Để thực hiện được điều đó, sau phần giới thiệu, phần hai của bài báo sẽ đi vào nghiên cứu tổng quan tác động của ICT tới nền kinh tế. Phần ba đi sâu vào hệ thống hóa các tác động của ICT tới nền kinh tế Việt Nam và cuối cùng là kết luận và hàm ý nhằm thúc đẩy ICT cho phát triển kinh tế Việt Nam trong tương lai. Bài báo này một mặt sẽ đóng góp vào các nghiên cứu tác động của ICT nói chung, đặc biệt bổ sung trường hợp nghiên cứu tại các nước đang phát triển, mặt khác là một nghiên cứu hệ thống về tác động kinh tế của ICT tại Việt Nam, một quốc gia đã chủ trương phát triển ICT cho phát triển kinh tế nhiều năm nhưng tác động chưa được nghiên cứu rõ ràng. 2 Tác động của công nghệ thông tin và truyền thông tới nền kinh tế Ảnh hưởng của ICT tới nền kinh tế đã được lý giải thông qua nhiều lý thuyết, nổi bật là hai lý thuyết gồm Lý thuyết công nghệ mang mục đích chung General Purpose Technology và Lý thuyết khuôn mẫu công nghệ Technological paradigm. Lý thuyết công nghệ mang mục đích chung được một số nhà kinh tế học thuộc trường phái tân cổ điển như Helpman [8], Bresnahan và Trajtenberg [3] phát triển, coi ICT là công nghệ mang mục đích chung. Khác với các công nghệ thông thường, công nghệ mang mục đích chung có ba đặc trưng là tính lan toả pervasiveness, tính cải tiến improvement và tính kích thích sáng tạo innovation spawning. Tính lan toả có nghĩa là công nghệ mang mục đích chung được sử dụng như một yếu tố đầu vào cho rất nhiều ngành sản xuất và dịch vụ. Tính cải tiến chỉ ra khả năng tự nâng cấp, phát triển và liên tục giảm giá của công nghệ. Tính kích thích sáng tạo thể hiện ở việc áp dụng công nghệ mang mục đích chung vào các ngành sản xuất và dịch vụ hỗ trợ việc tạo ra những sản phẩm mới và các quy trình sản xuất mới [3]. Các tác giả so sánh ICT với các công nghệ mang mục đích chung khác mà nền kinh tế thế giới đã trải qua như công nghệ in, động cơ hơi nước, quá trình cơ giới hoá, đường sắt, điện… để thấy tác động lan toả to lớn của ICT trong nền kinh tế. Lý thuyết khuôn mẫu công nghệ gắn ICT với khái niệm khuôn mẫu công nghệ [6, 8, 16, 17]. Khuôn mẫu công nghệ bao gồm một nhóm các công nghệ cơ bản được tạo ra và chịu sự chi phối của những nguyên lý và các quy tắc thực hành nhất định. Nhóm công nghệ cơ bản khi được coi là “khuôn mẫu” phải có ảnh hưởng đột phá, sâu rộng không chỉ trên khía cạnh kỹ thuật mà còn cả cấu trúc tổ chức – quản lý, thực sự tạo nên một cuộc cách mạng thay đổi toàn bộ logic sản xuất và nền kinh tế. Shiller [21] và Freeman [8] gọi tên “khuôn mẫu ICT” tương ứng với nền kinh tế mới – kinh tế tri thức. ICT buộc các doanh nghiệp phải thay đổi cấu trúc tổ 7 chức, cách thức quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp, cũng như với các đối tác, nhà cung cấp và khách hàng để không bị đào thải khỏi thị trường [8, 21]. Công nghệ thông tin và truyền thông tác động đến lối sống, thói quen sinh hoạt và làm việc của dân cư. Tóm lại, công nghệ thông tin và truyền thông tạo nên một trật tự hoàn toàn mới của nền kinh tế. Lý thuyết khuôn mẫu công nghệ ICT khẳng định chắc chắn rằng sự tác động của ICT là toàn diện trên phương diện chất và lượng, cấu trúc của hệ thống kinh tế – kỹ thuật techno-economic system và hệ thống xã hội – thể chế socio-insitutional system của nền kinh tế. Cả Lý thuyết công nghệ mang mục đích chung và Lý thuyết khuôn mẫu công nghệ đều khẳng định tác động rộng lớn, lan toả của ICT trong nền kinh tế. Vì vậy, việc đánh giá ảnh hưởng của ICT tới tăng trưởng và phát triển kinh tế bao giờ cũng phải xét tới khía cạnh lan toả của ngành ICT qua các ngành kinh tế khác. Bên cạnh đó, cả hai lý thuyết đều khẳng định tính quá trình cũng như sự ảnh hưởng đa chiều của ICT tới nền kinh tế. Điều này có nghĩa là mức độ tác động của ICT sẽ không giống nhau giữa các nước khác nhau. Các nghiên cứu thực nghiệm xem xét vai trò của ICT đối với tăng trưởng, đầu tư và các khía cạnh của nền kinh tế [4, 18]. Cụ thể, các nghiên cứu tập trung vào ba tác động điển hình của ICT tới nền kinh tế. Thứ nhất, đầu tư vào ICT tăng cường tác động của vốn và vì vậy có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng năng suất lao động xã hội. Thứ hai, mức độ phát triển công nghệ nhanh chóng trong sản xuất, dịch vụ và sản phẩm ICT đóng góp vào hiệu quả của vốn và lao động trong chính các ngành sản xuất ICT. Cuối cùng, việc sử dụng ICT trong nền kinh tế có thể hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động. Hơn nữa, do tác động của ICT, thương mại điện tử, dịch vụ cung cấp trực tuyến, phần mềm và thông tin dẫn tới cấu trúc thị trường và điều kiện cạnh tranh thị trường thay đổi. Nhiều chuyên gia cũng chỉ ra rằng Internet và thương mại điện tử tạo cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp nhỏ vì các doanh nghiệp này có thể dễ dàng tham gia vào chuỗi giá trị hơn, chi phí giao dịch giảm và khả năng tham gia lớn hơn vào thị trường toàn cầu. Công nghệ thông tin và truyền thông cũng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các mô hình kinh doanh mới, các sản phẩm và dịch vụ mới, các quy trình mới, và góp phần tạo ra những phát minh mới. Để đánh giá tác động của ICT tới nền kinh tế, các nghiên cứu thực nghiệm sử dụng số liệu vĩ mô, ngành và doanh nghiệp. Ở cấp độ vĩ mô, các nghiên cứu tập trung vào đánh giá tác động của ICT tới tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu định lượng đều chỉ ra tác động thuận chiều của ICT tới tăng trưởng GDP tại các quốc gia với các mức độ khác nhau. Chẳng hạn, Daveri [5] sử dụng dữ liệu của 18 quốc gia OECD và Liên minh châu Âu EU từ 1992 đến 1997 và cho thấy ICT đóng góp vào tăng trưởng GDP ở tất cả các nước được nghiên cứu, nhưng đóng góp ở các nước EU nhỏ hơn so với các nước công nghiệp khác. Sự khác biệt này là do đầu tư ICT thấp hơn ở các nước EU. Nghiên cứu của Niebel [14] với 59 quốc gia trong giai đoạn 1995–2010 cho thấy đóng góp của ICT vào tăng trưởng kinh tế của các quốc gia phát triển và mới nổi khá tương đồng; 1% tăng trưởng ngành ICT dẫn tới 8 khoảng 4,8% thay đổi tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, con số này cao hơn một chút ở các nước đang phát triển, ở mức 7,7%. Karlsson và Liljevern [12] nghiên cứu xem có sự khác nhau về mức độ ảnh hưởng của tăng trưởng trong đầu tư ICT đến tăng trưởng sản lượng toàn nền kinh tế giữa bốn nhóm quốc gia có thu nhập khác nhau hay không. Phân tích dữ liệu bảng dựa trên mẫu của 101 quốc gia trong giai đoạn 1995–2015. Các tác giả chia mẫu hồi quy thành các quốc gia có thu nhập cao, trung bình cao, trung bình thấp và thấp. Kết quả cho thấy ICT có những đóng góp đáng kể cho tăng trưởng ở ba nhóm nước giàu nhất đóng góp của đầu tư ICT tới GDP các nước có thu nhập cao, thu nhập trung bình cao và thu nhập trung bình thấp lần lượt là 0,056%; 0,048% và 0,044%, trong khi đó tác động của ICT tới tăng trưởng ở các nước thu nhập trung bình là không đáng kể. Đóng góp của ICT tới năng suất lao động cũng được chứng minh qua các nghiên cứu. Schreyer [22] nhận thấy rằng, trong trường hợp của các nước G7, trong giai đoạn 1990–1996, ICT đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng năng suất ở cả bảy các quốc gia với cường độ khác nhau. Kegels, van Overbeke và van Zandweghe [13] khi phân tích về đóng góp của ICT cho hiệu quả kinh tế ở Bỉ cho thấy rằng việc tích lũy vốn ICT dẫn đến sự đóng góp ngày càng tăng của vốn ICT vào tăng trưởng sản lượng và năng suất lao động trung bình của quốc gia. Theo Heshmati and Wang [10], đối với nền kinh tế Trung Quốc từ 1977 tới 2002, ICT đóng góp 41% vào tăng trưởng năng suất các yếu tố tổng hợp TFP và ICT có thể giải thích được 19% tăng trưởng kinh tế quốc gia. Ở mức doanh nghiệp, các nghiên cứu gặp khó khăn hơn nhiều so với các nghiên cứu ở cấp vĩ mô do thiếu dữ liệu mang tính hệ thống. Các nghiên cứu thường phải sử dụng dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau hoặc thực hiện điều tra mẫu lớn, do vậy số lượng và kết quả nghiên cứu bị hạn chế. Các nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu 1 tác động của ICT tới kết quả hoạt động của doanh nghiệp và 2 các yếu tố ảnh hưởng tới việc áp dụng thành công ICT trong doanh nghiệp. Salwani và cs. [20] khẳng định mối quan hệ thuận chiều giữa việc sử dụng thương mại điện tử tới kết quả hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành du lịch Malaysia. Nurmilaakso [15] cũng khẳng định mối quan hệ thuận chiều giữa việc áp dụng các ứng dụng ICT với năng suất lao động của nhân viên. Berrio và cs. [2] chỉ ra rằng ICT là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự hình thành và tính năng động của các doanh nghiệp. Các nghiên cứu cho trường hợp các nước phát triển phổ biến hơn các nước đang phát triển, một phần do tác động của ICT tới nền kinh tế đã rõ ràng hơn và một phần do dữ liệu tại các nước này cũng đầy đủ và chính xác hơn. 3 Phương pháp Nghiên cứu sử dụng phương pháp tìm kiếm, phân loại và hệ thống hóa nhằm tập hợp, bóc tách và sắp xếp các nghiên cứu thực nghiệm thu thập được theo mức độ và tính chất tác động của ICT, từ đó xây dựng một bức tranh tổng thể hệ thống về tác động của ICT tới nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể, tác giả tìm kiếm các tài liệu nghiên cứu theo vấn đề “tác động kinh tế 9 của ICT Việt Nam”. Tài liệu bao gồm các bài báo tạp chí mang tính chất hàn lâm và các báo cáo của các tổ chức thực hành, tư vấn, nghề nghiệp liên quan. Đối với các bài báo tạp chí hàn lâm, tác giả thực hiện tìm kiếm trên các cơ sở dữ liệu tạp chí có uy tín quốc tế và trong nước như Science Direct, Spinger, ISI web of Science, ProQuest, Scopus, Cơ sở dữ liệu của Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam, Nasati. Đối với các xuất bản mang tính thực hành, tác giả tìm kiếm các báo cáo của một số tổ chức chuyên nghiên cứu, đánh giá về ICT các nước như Tổ chức Trí tuệ kinh tế của Anh Economist Intelligence Unit – EIU, Ngân hàng thế giới World Bank – WB, Liên minh Viễn thông Quốc tế International Telecommunication Union – ITU. Công cụ Google Scholar cũng được sử dụng để tìm kiếm. Các tài liệu được phân loại theo khía cạnh tác động của ICT tới kinh tế Việt Nam vĩ mô, ngành và doanh nghiệp/ tổ chức. Một số nghiên cứu không tập trung vào tác động kinh tế của ICT tới nền kinh tế Việt Nam, nhưng dựa vào các từ khóa, tác giả có thể bóc tách các nội dung liên quan để phục vụ cho bài báo này. Phương pháp phân tích và tổng hợp và phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích rõ hơn tác động của ICT tới nền kinh tế, so sánh tác động kinh tế của ngành ICT với các ngành khác và với các quốc gia tương đồng để đánh giá khách quan về vị trí của ICT trong nền kinh tế Việt Nam. Các chỉ tiêu phân tích tác động căn bản nhấn mạnh vào các đặc điểm khác biệt đã được chỉ ra trong phần tổng quan của ICT so với các công nghệ thông thường gồm tính toàn diện, tính lan tỏa, tính cải tiến và kích thích sáng tạo. Các chỉ tiêu này được trình bày theo ba khía cạnh tác động của ICT tới nền kinh tế Việt Nam. Ở khía cạnh vĩ mô, các chỉ tiêu đánh giá tác động của ICT tới kinh tế chủ yếu gồm tác động tới tăng trưởng GDP và năng suất lao động. Ở mức ngành, các chỉ tiêu đánh giá nhấn mạnh tới tác động lan tỏa từ ngành ICT tới các ngành kinh tế khác và ở khía cạnh vi mô, các tác động ICT lưu ý tới những chuyển biến trong mô hình kinh doanh và quy trình kinh doanh của các doanh nghiệp. 4 Tác động của công nghệ thông tin và truyền thông tới kinh tế Việt Nam Vai trò của đầu tư công nghệ thông tin và truyền thông tới tăng trưởng GDP và năng suất lao động Tổ chức Năng suất Châu Á Asian Productivity Organization – APO tính toán đóng góp của các yếu tố tới tăng trưởng kinh tế GDP và tăng trưởng năng suất lao động của các nước Châu Á. Các yếu tố đóng góp vào tăng trưởng GDP gồm lao động, vốn và năng suất tổng hợp các yếu tố TFP. Yếu tố vốn được tách thành vốn công nghệ thông tin ICT và vốn ngoài ICT non-ICT. Tổ chức Năng suất Châu Á sử dụng phương pháp hạch toán tăng trưởng growth accounting để tính toán. Bảng 1 cho thấy mức đóng góp của vốn ICT cho tăng trưởng GDP tại Việt Nam. Cụ thể, trong mức tăng trưởng GDP trung bình 6,67% giai đoạn 2000–2016, yếu tố vốn IT đóng góp 0,3% trong tổng 6,67%, phần còn lại 6,37% do đóng góp của lao động, vốn ngoài ICT và năng suất tổng hợp các yếu tố TFP. Nếu tính tổng mức đóng góp là 100% thì mức đóng góp của tăng trưởng vốn ICT Việt Nam là 5% [1]. Mức đóng góp này thấp hơn của Thái 10 Lan, Philipin, Malaysia, Lào nhưng cao hơn của Indonesia. Nếu so sánh mức đóng góp của vốn ICT trong nghiên cứu của Karlsson và Liljevern [12] thì mức đóng góp vào tăng trưởng GDP của vốn ICT Việt Nam cao hơn mức trung bình của các quốc gia có chung khoảng thu nhập 5% so với 4,4%. Bảng 1. Các yếu tố đóng góp vào tăng trưởng kinh tế từ 2000 đến 2016 tại một số nước châu Á Đơn vị % TFP năng suất tổng hợp các yếu tố * mức đóng góp tuyệt đối ** mức đóng góp tương đối trên tổng 100% 0,15 = 0,76/5,15 Nguồn APO [1] Bảng 2 cho biết mức đóng góp của vốn ICT và các yếu tố khác tới năng suất lao động tại một số quốc gia khảo sát. Với mức tăng trưởng năng suất lao động 5,22%/năm trong giai đoạn 1986–2008, vốn IT đóng góp 0,25% tương đương với mức đóng góp 5% vào tăng trưởng năng suất lao động [1]. Mức đóng góp này thấp hơn mức trung bình của các quốc gia Châu Á so sánh cũng như đa phần các quốc gia trong khu vực. 11 Bảng 2. Các yếu tố đóng góp vào tăng trưởng năng suất lao động giai đoạn 2000–2016 tại một số nước châu Á Đơn vị % TFP năng suất tổng hợp các yếu tố * mức đóng góp tuyệt đối ** mức đóng góp tương đối trên tổng 100% 0,03 = 0,16/3,21 Nguồn APO [1] Tác động nhân sản lượng và lan tỏa của các ngành sản xuất công nghệ thông tin và truyền thông Các lý thuyết về vai trò kinh tế của ICT đều nhấn mạnh tác động lan toả của ngành này trong nền kinh tế. Mặc dù nghiên cứu của APO [1] chỉ ra mối quan hệ thuận chiều và mức độ đóng góp của vốn ICT trực tiếp tới tổng thể tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động nhưng không chỉ ra được tác động lan tỏa gián tiếp từ sản xuất của ngành ICT tới các ngành khác và tới nền kinh tế nghĩa là một ngành khi phát triển sẽ tạo điều kiện cho các ngành cung ứng cũng như các ngành sử dụng sản phẩm dịch vụ của nó phát triển theo, cũng như không cho phép so sánh tác động của ngành ICT với các ngành khác. Đức và Linh [7] đã trình bày tác động của từng ngành ICT tới tổng sản lượng nền kinh tế cũng như tới các ngành kinh tế khác tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích bảng Đầu ra đầu vào IO cho năm 2007 và 2012. Ngành ICT được phân chia thành ngành công nghiệp phần cứng ICT, ngành dịch vụ ICT và ngành nội dung ICT. Toàn nền kinh tế được phân chia thành 27 ngành theo tính chất sản xuất kinh doanh và mức độ sử dụng ICT Bảng 3. 12 Bảng 3. 27 nhóm ngành kinh tế theo tính chất sản xuất kinh doanh và theo mức độ sử dụng ICT Các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp chế biến – chế tạo khác Quặng kim loại và khoáng sản Thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ Dịch vụ vận tải, lưu trú ăn uống Vải dệt, hàng dệt may và các sản phẩm bằng da thuộc Các sản phẩm từ gỗ và giấy Dịch vụ tài chính, kế toán Hoá chất và các sản phẩm hoá chất, dầu mỏ, than, cao su, nhựa Dịch vụ khoa học, kinh doanh, việc làm Các sản phẩm khoáng sản phi kim loại Các kim loại cơ bản và các sản phẩm bằng kim loại khác Công nghiệp phần cứng ICT Máy móc, thiết bị, đồ dùng và các phụ kiện của chúng Dịch vụ giải trí và dịch vụ khác Nguồn. Đức và Linh [7] Bảng 4. Hệ số nhân sản lượng ngành công nghệ thông tin và truyền thông Đơn vị Lần Công nghiệp phần cứng ICT Công nghiệp phần cứng ICT Nguồn. Đức và Linh [7] 13 Hình 1. Hệ số nhân sản lượng của các ngành trong nền kinh tế Việt Nam Nguồn. Đức và Linh [7] Kết quả nghiên cứu cho thấy, vào năm 2012, một đồng sản lượng ngành công nghiệp phần cứng ICT tạo ra 4,13 đồng tổng sản lượng nền kinh tế. Một đồng sản lượng ngành dịch vụ ICT và ngành nội dung ICT tạo ra lần lượt 3,21 và 2,86 đồng tổng sản lượng của nền kinh tế. Nếu so sánh hệ số nhân sản lượng ngành ICT với các ngành khác thì có thể thấy ICT mã ngành N12 – công nghiệp phần cứng ICT, N20 – Nội dung và truyền thông ICT và N21 – Dịch vụ ICT – màu vàng trên hình là ngành có hệ số nhân sản lượng cao trong nền kinh tế Việt Nam, trong đó ngành công nghiệp phần cứng ICT có hệ số nhân sản lượng cao thứ 3 trong tổng 27 ngành của nền kinh tế Việt Nam Hình 1. Nếu so sánh tương đối với hệ số nhân sản lượng của ngành công nghiệp ICT tại một số nước trong khu vực như Malaysia ở mức 1,64, Thái Lan ở mức 1,38 và Indonesia ở mức 1,68 [11] thì có thể thấy tác động tăng sản lượng của ngành công nghiệp ICT Việt Nam nói riêng và ngành ICT Việt Nam nói chung đều khá cao. Điều này có thể do ngành ICT Việt Nam phục vụ phần lớn cho nhu cầu nội địa trong khi đó ngành ICT của Malaysia và Thái Lan lại phục vụ chủ yếu cho xuất khẩu. Như vậy, mặc dù bản thân sản lượng của ngành ICT chỉ chiếm 4% tổng GDP và mức độ đầu tư ICT của các ngành vẫn còn thấp, nhưng tác động nhân sản lượng của ngành ICT khẳng định được khả năng kích thích nền kinh tế của ngành ICT. Đức và Linh [7] cũng tính toán hệ số liên kết ngược và xuôi để biết chi tiết hơn mức độ lan toả của ngành ICT vào các ngành kinh tế khác. Khi hệ số liên kết ngược lớn hơn 1 và càng cao thì ngành ICT phát triển nhanh sẽ kéo theo sự tăng trưởng nhanh của toàn bộ các ngành cung ứng. Tương tự, khi hệ số liên kết xuôi lớn hơn 1 và càng cao thì ngành ICT phát triển sẽ kích thích sự phát triển tốt của các ngành sử dụng sản phẩm và dịch vụ ngành ICT. Hai hệ số 0,000,501,001,502,002,503,00N1N2N3N4N5N6N7N8N9N10N11N12N13N14N15N16N17N18N19N20N21N22N23N24N25N26N27Hệ số nhân sản lượng lần Ngành kinh tế 14 này của ngành công nghiệp phần cứng ICT đều lớn hơn 1 và cao so với hai ngành còn lại cho thấy ảnh hưởng lan toả lớn của ngành này đối với nền kinh tế Việt Nam. Với cả ba ngành ICT, liên kết ngược mạnh hơn liên kết xuôi. Điều này có nghĩa ICT tác động tới các ngành kinh tế khác với vai trò là ngành tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ của những ngành này nhiều hơn tác động tới chúng thông qua việc cung cấp yếu tố đầu vào cho sản xuất kinh doanh. Tác động của công nghệ thông tin và truyền thông tới hoạt động của doanh nghiệp và sự hình thành doanh nghiệp mới Ở khía cạnh doanh nghiệp, chỉ số sẵn sàng kết nối NRI – Network Readiness Index của WEF [23] có một chỉ số thành phần phản ánh tác động kinh tế của ICT tại các quốc gia khác nhau. Hình 2 so sánh tác động của ICT tới 1 sự thay đổi mô hình kinh doanh, 2 sự xuất hiện các mô hình tổ chức mới, 3 số lượng việc làm tri thức cao trên tổng lực lượng lao động và 4 tác động tổng hợp của ICT tới nền kinh tế quốc gia giữa Việt Nam và một số nước trong khu vực. Số liệu cho thấy tác động của ICT tới mô hình kinh doanh và tổ chức của Việt Nam khá tương đồng với Thái lan, Indonesia và Philipin, nhưng tỷ trọng việc làm tri thức cao trên thị trường Việt Nam còn thấp hơn ở các nước này. Vì vậy, về mức xếp hạng chung mức tác động của ICT tới nền kinh tế năm 2016, Việt Nam đứng thứ 92/139 nước xếp hạng Bảng 5. Đây là mức thấp hơn khá nhiều so với các quốc gia trong khu vực. Lưu ý rằng, chỉ số tác động của ICT tới nền kinh tế này chưa đầy đủ, được xem xét chủ yếu từ một số khía cạnh tác động ở mức doanh nghiệp. Hình 2. Tác động của công nghệ thông tin và truyền thông tới nền kinh tế tại một số quốc gia châu Á Nguồn. WEF [23] 0,00%10,00%20,00%30,00%40,00%50,00%60,00%01234567Tỷ lệ % Mức độ tác động 1-7 cao nhất Tác động của ICT tới mô hình kinh doanh, 1-7 cao nhất Tác động của ICT tới mô hình tổ chức mới, 1-7 cao nhất Tác động kinh tế chung của ICT, 1-7 cao nhất Tỷ lệ lao động tri thức, % trên tổng lao động 15 Bảng 5. Xếp hạng tác động của công nghệ thông tin và truyền thông tới nền kinh tế từ khía cạnh vi mô Nguồn. WEF [23] Ở góc độ hẹp, Phước và Bình [19] đánh giá tác động của ICT tới các doanh nghiệp thông qua nghiên cứu ảnh hưởng của thương mại điện tử tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Các tác giả đã khảo sát các doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng bảng hỏi với thang đo Likert 5. Năm lợi ích lớn nhất được các doanh nghiệp tham gia khảo sát đồng thuận với mức điểm từ 3,11/5 tới 3,47/5 gồm 1 giảm chi phí giao dịch và marketing, 2 tăng mức lợi nhuận của doanh nghiệp, 3 tăng cường thị phần, 4 cải thiện quy trình kinh doanh và 5 hỗ trợ dịch vụ khách hàng Bảng 6. Bảng 6. Các lợi ích của thương mại điện tử đối với các doanh nghiệp Lợi ích từ thương mại điện tử Giảm chi phí giao dịch và marketing Cải thiện quy trình kinh doanh Củng cố dịch vụ khách hàng Nguồn. Phước và Bình [19] 5 Thảo luận Mặc dù còn hạn chế về số lượng nghiên cứu định lượng, nhưng các nghiên cứu hiện tại khá phù hợp về kết quả đánh giá và chỉ ra một số đặc điểm về tác động của ICT tới nền kinh tế Việt Nam. Thứ nhất, ở khía cạnh vĩ mô, đóng góp của vốn đầu tư ICT tới tăng trưởng GDP và tăng trưởng năng suất lao động thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Như vậy, cho dù ICT vẫn được nhấn mạnh là động lực phát triển kinh tế Việt Nam, nhưng vốn đầu tư vào ICT tại Việt Nam vẫn còn hạn chế. Thứ hai, ở mức độ ngành, tác động nhân sản lượng của ICT Việt Nam tới tổng sản lượng nền kinh tế ở mức khá hơn một số nước trong khu vực và nhiều ngành kinh tế khác thuộc nền kinh tế Việt Nam, nhưng tác động ấy đến chủ yếu từ việc ICT sử dụng các ngành khác là yếu tố đầu vào, trong khi tác động của ICT tới các ngành khác với tư cách là yếu tố công nghệ đầu vào lại hạn chế hơn. Đây cũng là khía cạnh ít mong muốn hơn trong tác động lan tỏa của ICT. Lý 16 thuyết công nghệ mang mục đích chung [3, 9] và Lý thuyết khuôn mẫu công nghệ [6, 8, 14, 15] đều nhấn mạnh vào vai trò công nghệ nền tảng của ICT tạo sự thay đổi mạnh mẽ đối với nền kinh tế xã hội khi nó được các ngành kinh tế ứng dụng như một yếu tố đầu vào. Thứ ba, ở khía cạnh doanh nghiệp, mặc dù khảo sát cho thấy ICT đã đóng góp vào hiệu quả kinh doanh tại các doanh nghiệp, nhưng mức độ tác động trên các khía cạnh như tạo mô hình kinh doanh mới, mô hình tổ chức mới, hay số lượng lao động tri thức trong tổng lực lượng lao động tại Việt Nam vẫn còn hạn chế so với các nước trong khu vực. Như vậy, tác động mang tính bước ngoặt làm thay đổi logic sản xuất và mô hình kinh doanh được dự báo trong lý thuyết [3, 6, 8, 9, 16, 17] của ICT chưa thể hiện rõ nét trong trường hợp nền kinh tế Việt Nam. 6 Kết luận Nghiên cứu đã đánh giá được một cách hệ thống tác động kinh tế của ICT tại Việt Nam. Tác động của ICT tới nền kinh tế là hiện hữu, tuy vậy mức độ tác động còn hạn chế. ICT chưa thể tác động làm thay đổi đáng kể cách thức hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam, nên khi chuyển sang mức ngành, tác động lan tỏa của ngành ICT tới các ngành kinh tế khác ở phía cầu thấp, tiếp đến là đóng góp tổng thể cho tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động cũng hạn chế. Đây là nghiên cứu tổng thể đầu tiên với các số liệu định lượng rõ ràng về tác động của ICT tới kinh tế Việt Nam. Kết quả phân tích đánh giá tác động kinh tế của ICT tại Việt Nam trên đây gợi ý rằng công nghệ thông tin và truyền thông vẫn có tiềm năng kích thích các ngành kinh tế phát triển. Tuy vậy, Việt Nam cần khắc phục những điểm tồn tại để tăng cường tác động kinh tế của ICT, cụ thể gồm 1 tăng cường đầu tư vào công nghệ thông tin và truyền thông, 2 tăng cường tác động lan tỏa từ việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông như là một yếu tố đầu vào cho sản xuất và 3 tăng cường tính đổi mới trong kinh doanh thông qua áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Muốn vậy, về phía chính phủ, chính sách công nghệ thông tin và truyền thông cần trước hết tạo đà và tạo môi trường kích thích đầu tư vào công nghệ thông tin và truyền thông. Môi trường đầu tư công nghệ thông tin và truyền thông có thể được kích thích từ phía cầu, thông qua các chương trình chẳng hạn như chính phủ điện tử, chương trình chuyển đổi số cho các doanh nghiệp, tổ chức hoặc có thể được kích thích từ phía cung chẳng hạn các hỗ trợ cơ chế, tài chính, xúc tiến thương mại đối với các doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông. Chính phủ cũng cần kích thích nghiên cứu sáng tạo, ứng dụng và chấp nhận rủi ro khi phát triển và ứng dụng những thành tựu mới của công nghệ thông tin và truyền thông. Trong trường hợp này, các biện pháp có thể bao gồm thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng và thúc đẩy các doanh nghiệp công nghệ khởi nghiệp tại Việt Nam. Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp Việt Nam cần mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông cho những thay đổi 17 mang tính bước ngoặt. Có như vậy, công nghệ thông tin và truyền thông mới phát huy được tiềm năng cao, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển, theo kịp các quốc gia trên thế giới. Mặc dù nghiên cứu đã xây dựng được bức tranh khá tổng thể đánh giá tác động kinh tế của công nghệ thông tin và truyền thông tới nền kinh tế Việt Nam từ khía cạnh vĩ mô tới vi mô, nhưng do kết quả nghiên cứu dựa trên trích xuất và tập hợp các nghiên cứu khác nhau với các nguồn dữ liệu khác nhau nên việc phân tích kết quả sẽ có những hạn chế nhất định. Trong thời gian tới, tác giả sẽ thực hiện nghiên cứu định lượng dựa trên một bộ dữ liệu chính thống, sử dụng các phương pháp khác nhau để đánh giá các góc cạnh tác động của công nghệ thông tin và truyền thông tới nền kinh tế Việt Nam. Tài liệu tham khảo 1 APO Asian Productivity Organization 2018, APO Productivity Database 2018, Retrieved from on 25 June 2019. 2 Berrio S. E. C., Redondo R. P., Hernandez H. G. 2018, Impact of ICT on the Generation of New Services Companies, Contemporary Engineering Sciences, 1152, 2591–2599. 3 Bresnahan T. F., Trajtenberg M. 1992, General Purpose Technologies Engines of Growth?, NBER Working Paper, 4148. 4 Brynjolfsson E., Kahin B. 2000, Understanding the Digital Economy Data, Tools, and Research, Massachusetts Institute of Technology, US. 5 Daveri F. 2000, Is growth an Information Technology story in Europe too?, IGIER Working Paper, 168. 6 Dosi G. 1982, Technical Paradigms and Technological Trajectories, Research Policy, 11, 147–162. 7 Đức Đ. T. V., Linh Đ. H. 2018, Contribution of ICT to Vietnamese Economy An Input-Output Analysis, VNU Journal of Economic and Business, 335E, 1–17, Retrieved from on 20 June 2019. 8 Freeman, C. 2005, The ICT Paradigm, in Mansell, R. et al. ed., The Oxford Handbook of Information and Communication Technologies, Oxford University Press. 9 Helpman E. Eds. 1998, General Purpose Technologies and Economic Growth, Cambridge, MA MIT Press. 10 Heshmati A., Yang W. 2006, Contribution of ICT to the Chinese Economic Growth, Ratio Working Papers 91, The Ratio Institute. 11 Irawan T. 2013, ICT and Economic Development Conclusion from IO Analysis for Selected ASEAN Member States, University of Wuppertal. 18 12 Karlsson E., Lijivern J. 2017, ICT Investment and the Effect on Economic Growth- A Comparative Study Across Four Income Groups, International School, Jonkping University. 13 Kegels C., Van Overbeke M., Van Zandweghe W 2002, ICT contribution to economic performance in Belgium Preliminary evidence, Working Paper 8–02, Federal Planning Bureau, Brussels. 14 Niebel T. 2014, ICT and Economic Growth- Comparing Developing, Emerging and Developed Countries, ZEW Centre for European Economic Research, Discussion Paper, 14–117. 15 Nurmilaakso, J. M. 2009, ICT solutions and labor productivity evidence from firm-level data, Electronic Commerce Research, 93, 173–181. 16 Perez C. 1983, Structural Change and Assimilation of New Technologies in the Economic and Social Systems, Future, October 1983, 357–375. 17 Perez C. 2004, Technological Revolutions, Paradigm Shifts, and Socio-Institutional Change, in R. Erik Eds., Globalization, Economic Development and Inequality An Alternative Perspective, Cheltenham, UK, Northampton, MA, USA Edward Elgar, 217–242. 18 Pilat D. 2004, The Economic Impacts of ICT- What have We Learned Thus Far?, Zew Conference on the Economics of Information and Communication Technologies, Mannheim, July 2–3. 19 Phước N. Đ. H, Bình Đ. T. 2018, The Impact of E-commerce on Vietnamese SMEs, European Journal of Business Science and Technology, 32, 90–96. 20 Salwani, M. I., Marthandan, G., Norzaidi, M. D., Chong, S. C. 2009, E-commerce usage and business performance in the Malaysian tourism sector empirical analysis, Information Management & Computer Security, 172, 166–185. 21 Shiller R. 2000, Irrational Exuberance, New York Princeton University Press. 22 Schreyer P. 2000, The contribution of information and communication technology to output growth A study of the G7 countries, Retrieved from 23 WEF World Economic Forum 2017, Global Information Technology Report 2016. 19 IMPACT OF INFORMATION AND COMMUNICATION TECHNOLOGY ON VIETNAM’S ECONOMY Dang Thi Viet Duc* Posts and Telecommunications Institute of Technology 122 Hoang Quoc Viet St., Cau Giay District, Ha Noi, Vietnam Abstract. Information and communication technology ICT is considered as an important driving force for socio-economic development. In Vietnam, Information and communication technology has been invested for economic development for more than two decades, but there have been limited quantitative assessments of the impact of ICT on the economy. This article systematizes the impact of ICT on Vietnam’s economy at macro-economic, industry, and business levels. The results indicate that the contribution of ICT to Vietnam’s economy is relatively positive. However, compared with other countries in the region, Vietnam experiences a limited impact of ICT on GDP growth, labor productivity growth, ICT diffusion as the technology input of production, as well as the impact of ICT to change the business model and organizational model of the enterprise. On the basis of these results, the author provides implications for businesses and policymakers to better exploit ICT for business and economic development in Vietnam. Keywords ICT, impact, Vietnam’s economy ResearchGate has not been able to resolve any citations for this publication. Dang Thi Viet DucThis article uses Input-output IO analysis to evaluate the impact of ICT on the Vietnamese economy. Two IO tables are used, including tables of 2007 and 2012. The results show that ICT sectors were small in Vietnamese economy and the spending on ICT products and services of an average sector of the economy was generally low. Regarding the impact on output of other sectors, the research results reveal that the ICT sectors' backward linkages were stronger than the forward linkages, the ICT generated more impact on sectors which provided it input rather than on sectors that used its products and services. The total output multiplying effect of the ICT was rather high; ICT was among the most influential sectors in Vietnamese economy. Among ICT sectors, the ICT manufacturing was the most pervasive which is followed by the ICT services and ICT media and content. The study implies that if Vietnam seeks to enhance the economy, the government needs to implement specific policies that facilitate ICT industry and ICT commerce E-commerce is one of the most innovative expansions of the technologies that enable small and medium-sized enterprise SMEs access to global communication and trade. It can help SMEs expand their businesses to global market and increase sales, reduce costs as well as profits. A questionnaire survey was conducted to study the impact of e-commerce on SMEs in Viet Nam. From the results of this survey, we strongly believed that e-commerce is the main key to bring a lot of benefits to not only SMEs but also big companies in Viet Nam. Juha-Miikka NurmilaaksoThis paper analyses the impacts of information and communication technology ICT solutions on labor productivity, revenue per employee. Based on cross-sectional data on 1955 European firms in 2005 and a linear regression model derived from the microeconomic theory of production, the impacts of six common ICT solutions in electronic commerce e-commerce cannot be ignored. According to the linear regression analysis, Internet access, standardized data exchange with the trading partners, enterprise resource planning ERP system, and customer relationship management CRM system contribute significant increases in labor productivity, whereas a website on the Internet, or supply chain management SCM system do not result in a significant increase. Especially, Internet access has a significant effect on labor productivity, and the website on the Internet has an insignificant Based upon the E‐VALUE model developed, this paper aims to investigate the impact of e‐commerce usage on business performance in the tourism sector. Design/methodology/approach A cross‐sectional survey is carried out on 165 Malaysian firms involved in the tourism sector hotels, resorts, and hospitals engaged in health tourism through the use of a structured questionnaire. Findings The structural equation modeling results indicate that technology competency, firm size, firm scope, web‐technology investment, pressure intensity, and back‐end usage have significant influence on e‐commerce usage. Among these variables, back‐end integration is found to function as a mediator. E‐commerce experience in years is found to moderate the relationship between e‐commerce usage and business performance. Research limitations/implications The paper focuses on the tourism sector in Malaysia and concentrates only on the management perspective of e‐commerce adoption. Practical implications The results provide insights to the Malaysian tourism sector and other organizations of similar structures of how they could improve upon their e‐commerce adoption and/or usage for improved business performance. Originality/value This paper is perhaps one of the first to investigate e‐commerce usage in the tourism sector using a comprehensive set of variables through an interactive, comprehensive and multi‐dimensional theoretical model the E‐VALUE model in investigating their influences on business Oxford Handbook of Information and Communication Technologies is about the many challenges presented by information and communication technologies ICTs. The authors are principally researchers in anthropology, economics, philosophy, politics, and sociology. The book sets out an intellectual agenda that examines the implications of ICTs for individuals, organizations, democracy, and the economy. The production and consumption of ICTs are becoming deeply embedded within our societies. The influence and implications of this have an impact at a macro level, in the way our governments, economies, and businesses operate, and at a micro level in our everyday lives. Explicitly interdisciplinary, and combining empirical research with theoretical work, this text is organised around four themes the knowledge economy; organizational dynamics, strategy, and design; governance and democracy; culture, community and new media literacies. Paul SchreyerWe model and experimentally examine the board structure-performance relationship. We examine single-tiered boards, two-tiered boards, insider-controlled boards, and outsider-controlled boards. We find that even insider-controlled boards frequently adopt institutionally preferred rather than self-interested policies. Two-tiered boards adopt institutionally preferred policies more frequently but tend to destroy value by being too conservative, frequently rejecting good projects. Outsider-controlled single-tiered boards, both when they have multiple insiders and only a single insider, adopt institutionally preferred policies most frequently. In those board designs where the efficient Nash equilibrium produces strictly higher payoffs to all agents than the coalition-proof equilibria, agents tend to select the efficient Nash equilibria. Copyright 2008, Oxford University PerezThrough generating a set of hypotheses about the inter-relationship between diffusion of new technologies and economic development, the author seeks to identify the causal mechanisms of the depressions in the trough of the Kondratiev long wave. A model of the capitalist economy and an analysis of its structural patterns and processes are proposed, and from an examination of the technoeconomic and socio-institutional characteristics of the fourth Kondratiev, some institutional requirements for the next upswing are elaborated. TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của công nghệ thông tin và truyền thông CNTT-TT đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bằng việc sử dụng dữ liệu bảng theo phương pháp mô men tổng quát GMM trong giai đoạn 2009-2019. Các kết quả từ mô hình kinh tế lượng cho thấy ngoại trừ điện thoại cố định, các biến công nghệ thông tin và truyền thông khác như điện thoại di động, sử dụng internet và sử dụng băng thông rộng là những yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành phố. Ngoài ra, sự vượt trội của các tỉnh thành khu vực miền Trung so với khu vực miền Bắc và khu vực miền Nam trong các lĩnh vực sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Từ góc độ chính sách, kết quả cho thấy các nhà chức trách ở Việt Nam nên tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng CNTT-TT. Để tạo ra lợi ích từ các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các nhà hoạch định chính sách nên ban hành một số chính sách quan trọng cho phép phát triển các lĩnh vực tài chính, cung cấp một môi trường pháp lý và thể chế thuận tiện hơn, tăng cường kinh tế, tăng cường ưu tiên cho chính phủ và phát triển cơ sở hạ tầng. Từ khóa Công nghệ thông tin, truyền thông, GMM. ABSTRACT The study aimed to assess the impact of information and communication technology ICT on the economic growth of Viet Nam. By using panel data according to the Generalized Methods of Moments GMM in the period of 2009-2019. The results from the econometric model show that with the exception of landline telephones, other information and communication technology variables such as mobile phones, internet usage and broadband usage are the key factors economic growth in provinces and cities. In addition, the relative dominance of the provinces in the Central region compared to the North and the South in the areas of internet usage and broadband application. From a policy perspective, the results suggest that the authorities in Vietnam should increase their investment in ICT infrastructure. In order to benefit from factors that promote economic growth, policy makers should enact a number of important policies that enable the development of financial sectors, providing a legal and regulatory environment. more convenient mechanisms, increase the economy, increase government priorities and develop infrastructure. Ngày nhận bài 20/01/2020 Ngày nhận bài sửa sau phản biện 15/6/2020 Ngày chấp nhận đăng 26/02/2021 1. GIỚI THIỆU Công nghệ phát triển và không ngừng phát triển kể từ khi bắt đầu lịch sử của nhân loại. Vào những năm 2000, công nghệ đã chuyển đổi thành một cấu trúc chứa một lượng lớn thông tin. Trong những thập kỷ qua, sự phổ biến lớn của công nghệ thông tin và truyền thông CNTT-TT đã tạo ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ của thế giới thành một xã hội thông tin. Nhờ cơ sở hạ tầng CNTT như điện thoại, truyền hình, điện thoại di động, internet và băng thông rộng, người dân và các chính phủ hiện có quyền truy cập thông tin, kiến thức và trí tuệ tốt hơn nhiều so với trước đây về quy mô, phạm vi và tốc độ. Sự phổ biến của CNTT đã cải thiện đáng kể hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực, giảm đáng kể chi phí sản xuất và thúc đẩy nhu cầu và đầu tư lớn hơn nhiều trong tất cả các lĩnh vực kinh tế [5, 9, 13]. Về tầm quan trọng ngày càng tăng của CNTT và cách thức biến đổi thế giới, nhiều học giả và nhà nghiên cứu đã tập trung vào nghiên cứu tác động của CNTT đến tăng trưởng kinh tế ở cấp độ công nghiệp, ở cấp quốc gia và ở cấp độ quốc gia. Một số công trình lý thuyết và thực nghiệm đã được thực hiện để trả lời câu hỏi CNTT-TT có tác động gì đến tăng trưởng kinh tế? Các tài liệu cho thấy rằng CNTT-TT đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ này đã tạo ra kết quả hỗn hợp [17]. Trong khi một số nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định rằng khuếch tán CNTT đóng vai trò tích cực và có ý nghĩa trong việc cải thiện tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nước phát triển [7, 8], các nghiên cứu khác cho thấy tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước và các khu vực trên thế giới bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sự khuếch tán của CNTT [13, 20]. Tập trung vào các nước đang phát triển, nhiều nghiên cứu trước đây đã tiến hành các công trình thực nghiệm sử dụng các mô hình kinh tế lượng khác nhau và sử dụng dữ liệu xuyên quốc gia để hiểu mối quan hệ giữa khuếch tán CNTT và tăng trưởng kinh tế [1, 13, 17]. Những nghiên cứu này tạo ra kết quả mơ hồ và có sự bất đồng lớn giữa các nhà nghiên cứu về hiệu quả của tăng trưởng mạnh mẽ do sự khuếch tán của CNTT trong bối cảnh các nước đang phát triển. Do đó, vấn đề này vẫn còn mở để điều tra. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM IMPACT OF INFORMATION AND COMMUNICATION TECHNOLOGY ON ECONOMIC GROWTH IN VIETNAM Hà Thành Công TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm đánh g iá tác động của công nghệ thông tin và truyềthông CNTT-TT đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bằn g việc sử dụng dliệu bảng th eo phương pháp mô men tổng quát GMM trong giai đoạn 2009 -2019. Các kết qu ả từ mô h ình kinh tế lượn g cho thấy ngoại trừ điện thoại cốđịnh, các biến công nghệ thông tin và truyền thông khác như điện thoạđộng, sử dụng internet và sử dụng băng thông rộng là những yếu tố thúc đẩy tăn g trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành ph ố. Ngoài ra, sự vượt trội củcác tỉnh thành khu vực miền Tr ung so với khu vực miền Bắc và kh u vực miềNam trong các lĩnh vực sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Từ độ chính sách, kết quả cho thấy các nhà chức trách ở Việt Nam nên tăng đầvào c ơ sở hạ tầng CNTT-TT. Để tạo ra lợi íc h từ các yếu tố thúc đ ẩy tăn g trưởkinh tế, các nhà hoạc h định chính sách n ên ban hành một số trọng cho phép phát triển các lĩnh vực tài chính, cung cấp một môi trườpháp lý và thể chế thuận tiện hơn, tăng cường kinh tế, tăng cườchính phủ và phát tr iển cơ sở hạ tầ ng. Từ khóa Công nghệ thông tin, truyền thông, GMM. ABSTRACT The study aimed to assess the impact of information and communication technology ICT on the economic growth of Viet Nam. By using panel dat a according to the Generalized Methods of Moments GMM in the period of 2009 -2019. The results from the econometric model show that with the exception of landline telephones, other information and communication technology variabl es such as mobile phones, internet usage and broadband usage are the key factors economic growth in provinces and cities. In addition, the relative dominance of the provinces in the Central region compared to the North and the South in the areas of internet usage and broadband application. From a policy perspective, the results suggest that the authorities in Vi etnam should increase their investment in ICT infrastructure. In order to benefit from factors that promote economic growth, policy makers should enact a number of important policies that enable the development of financial sectors, providing a legal and regulatory environment. more convenient mechanisms, increase government priorities and develop infrastructure. Keywords Information, technology, communication, GMM. Khoa Quản lý kinh doanh, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Email hathanhcong Ngày nhận bài 20/01/2020 Ngày nhận bài sửa sau phản biện 15/6/2020 Ngày chấp nhận đăng 26/02/2021 1. GIỚI THIỆU Công nghệ phát triển và không ngừng phát triển kể từ khi bắt đầu lịch sử của nhân loại. Vào những năm 2000, công nghệ đã chuyển đổi thành một cấu trúc chứa một lượng lớn thông tin. Trong những thập kỷ qua, sự phổ biến lớn của công nghệ thông tin và truyền thông CNTT-TT đã tạo ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ của thế giới thành một xã hội thông tin. Nhờ cơ sở hạ tầng CNTT như điện thoại, truyền hình, điện thoại di động, internet và băng thông rộng, người dân và các chính phủ hiện có quyền truy cập thông tin, kiến thức và trí tuệ tốt hơn nhiều so với trước đây về quy mô, phạm vi và tốc độ. Sự phổ biến của CNTT đã cải thiện đáng kể hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực, giảm đáng kể chi phí sản xuất và thúc đẩy nhu cầu và đầu tư lớn hơn nhiều trong tất cả các lĩnh vực kinh tế [5, 9, 13]. Về tầm quan trọng ngày càng tăng của CNTT và cách thức biến đổi thế giới, nhiều học giả và nhà nghiên cứu đã tập trung vào nghiên cứu tác động của CNTT đến tăng trưởng kinh tế ở cấp độ công nghiệp, ở cấp quốc gia và ở cấp độ quốc gia. Một số công trình lý thuyết và thực nghiệm đã được thực hiện để trả lời câu hỏi CNTT-TT có tác động gì đến tăng trưởng kinh tế? Các tài liệu cho thấy rằng CNTT-TT đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ này đã tạo ra kết quả hỗn hợp [17]. Trong khi một số nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định rằng khuếch tán CNTT đóng vai trò tích cực và có ý nghĩa trong việc cải thiện tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nước phát triển [7, 8], các nghiên cứu khác cho thấy tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước và các khu vực trên thế giới bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sự khuếch tán của CNTT [13, 20]. Tập trung vào các nước đang phát triển, nhiều nghiên cứu trước đây đã tiến hành các công trình thực nghiệm sử dụng các mô hình kinh tế lượng khác nhau và sử dụng dữ liệu xuyên quốc gia để hiểu mối quan hệ giữa khuếch tán CNTT và tăng trưởng kinh tế [1, 13, 17]. Những nghiên cứu này tạo ra kết quả mơ hồ và có sự bất đồng lớn giữa các nhà nghiên cứu về hiệu quả của tăng trưởng mạnh mẽ do sự khuếch tán của CNTT trong bối cảnh các nước đang phát triển. Do đó, vấn đề này vẫn còn mở để điều tra. P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY Website Vol. 57 - No. 1 Feb 2021 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY Trong số các nước đang phát triển đang được điều tra, một số nghiên cứu gần đây cho thấy mối quan tâm đặc biệt trong việc nghiên cứu ảnh hưởng của phổ biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển ở khu vực Trung Đông và Bắc Phi - MENA [13] và khu vực Châu Phi - SSA [2, 21]. Sự quan tâm này đã cho thấy thực tế là trong những năm gần đây, hầu hết các quốc gia MENA và SSA đã trải qua một sự đột biến mạnh mẽ trong việc sử dụng CNTT-TT, được đo lường bằng một số chỉ số như thuê bao điện thoại di động và điện thoại di động, số lượng người dùng internet và số lượng thuê bao băng thông rộng [22]. Ngoài ra, một nghiên cứu tài liệu cho thấy so với các nước phát triển và châu Á, CNTT ở Việt Nam vẫn đang còn nhiều hạn chế cần tìm hiểu và thảo luận thêm để đưa ra ý tưởng rõ ràng về tác động của khuếch tán CNTT đối với tăng trưởng kinh tế cho các tỉnh, thành phố của Việt Nam. Bài báo trình bày nghiên cứu ảnh hưởng của khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam, được phân chia thành 3 miền Bắc - Trung - Nam, bằng cách sử dụng mô hình sai phân tổng quát GMM hai bước trong giai đoạn 2009 - 2019. Phần còn lại của bài báo được tổ chức như sau Phần 2 trình bày tổng quan tài liệu ngắn gọn về chủ đề này. Phần 3 mô tả phương pháp nghiên cứu được áp dụng. Phần 4 là kết quả và thảo luận về các kết quả được tìm thấy. Phần 5 kết luận và khuyến nghị chính sách. 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng các công cụ và sản phẩm sẽ được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của con người ở bất kỳ quốc gia hay khu vực nào. Một phương pháp để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế liên quan đến việc tìm hiểu liệu đã có sự gia tăng thực sự không bao gồm tăng giá trong tổng sản phẩm quốc nội GDP từ năm này sang năm khác vì GDP đại diện cho thị trường tương đương với tất cả các giá trị đo lường được sản xuất bởi một nền kinh tế. Ba chỉ số chính của tăng trưởng kinh tế là tích lũy vốn, tiến bộ công nghệ và gia tăng dân số và lực lượng lao động. Tích lũy vốn được coi là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Điều kiện quan trọng nhất cần được đáp ứng để đảm bảo sự phát triển là sự tồn tại của các khoản đầu tư đầy đủ. Và việc thực hiện đầu tư phụ thuộc vào mức tăng tiết kiệm để kiếm được từ các khoản thu. Là chỉ số thứ hai của tăng trưởng kinh tế, tiến bộ công nghệ có thể được định nghĩa là toàn bộ hệ thống thông tin, tổ chức và kỹ thuật cần thiết trong quy trình sản xuất. Với sự trợ giúp của công nghệ, có thể thu được nhiều đầu ra hơn với việc sử dụng cùng một lượng đầu vào trong bất kỳ quy trình sản xuất nào. Điều này chắc chắn sẽ mang lại tiết kiệm trong lực lượng lao động và vốn. Chỉ số cuối cùng là sự gia tăng dân số và lực lượng lao động. Với sự gia tăng dân số dẫn đến sự gia tăng tương tự lực lượng lao động, một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế sẽ được tạo ra. Sự phát triển nhanh chóng trên toàn thế giới của CNTT trong ba thập kỷ qua đã thu hút sự chú ý ngày càng tăng của nhiều nhà kinh tế và nhà nghiên cứu, những người đã tập trung vào nghiên cứu tác động của phổ biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. Các lý thuyết đương đại nổi bật như lý thuyết Schumpeterian và lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển [19] đã nhấn mạnh hiệu quả tăng trưởng kinh tế của đầu tư vào CNTT và cũng bởi một số nghiên cứu thực nghiệm cho thấy mối quan hệ tích cực giữa đầu tư CNTT và tăng trưởng kinh tế. Những lý thuyết này cho thấy rằng dòng chảy của CNTT về phía cung của nền kinh tế cùng với các yếu tố cơ sở hạ tầng bổ sung có thể dẫn đến sự thay đổi về vốn, tạo ra sự cải thiện quy trình sản xuất thông qua tăng cường vốn và tạo ra những tiến bộ về công nghệ và chất lượng lực lượng lao động. Do đó, CNTT tạo ra giá trị gia tăng ở cấp độ doanh nghiệp và ở cấp độ ngành và do đó dẫn đến cải thiện năng suất và tăng trưởng kinh tế ở cấp quốc gia [1]. CNTT là một công cụ phái sinh, nó đòi hỏi các quốc gia có nguồn lực cần thiết để đầu tư và con người có cơ hội hưởng lợi cao hơn từ hiệu quả thúc đẩy tăng trưởng của các khoản đầu tư vào CNTT-TT. Trong khi các công trình lý thuyết đã cho thấy hiệu quả tích cực của CNTT đối với tăng trưởng kinh tế, một số nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ này đã tạo ra kết quả hỗn hợp. Một mặt, nhiều nghiên cứu đã khẳng định sự hiện diện của một tác động tích cực đáng kể của sự khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu xuyên quốc gia tập trung vào tác động của các công nghệ viễn thông như điện thoại, truyền hình đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển. Roller và Waverman [16] sử dụng dữ liệu của 21 quốc gia OECD trong khoảng thời gian 20 năm 1970 - 1990; Madden và Savage [10] kiểm tra một mẫu của 27 quốc gia Trung và Đông Âu trong giai đoạn 1990-1994, cho thấy mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa đầu tư cơ sở hạ tầng viễn thông và tăng trưởng kinh tế. Một số nghiên cứu gần đây đã khẳng định sự đóng góp mạnh mẽ của các công nghệ viễn thông mới hơn như điện thoại di động, máy tính cá nhân và internet cho sự tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển [6]. Trong số các nghiên cứu xuyên quốc gia tập trung vào các nước đang phát triển, ngày càng có nhiều công trình thực nghiệm cho rằng việc phổ biến và đầu tư vào CNTT tích cực và ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia này. Sử dụng một loạt các chỉ số về CNTT-TT, bao gồm cả điện thoại di động và tỷ lệ thâm nhập điện thoại và chi phí của các cuộc gọi trong nước, Andrianaivo và Kpodar [3] đã khẳng định rằng CNTT đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của các nước châu Phi trong giai đoạn 1988 - 2007. Tương tự, Lee và cộng sự [9] đã xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư cơ sở hạ tầng viễn thông như điện thoại cố định và điện thoại di động trong khu vực SSA. Họ đã áp dụng phương pháp GMM trên dữ liệu từ 44 quốc gia vùng Sahara trong giai đoạn 1975 - 2006. Các kết XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 quả đã khẳng định rằng việc mở rộng điện thoại di động là một yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế ở châu Phi cận Sahara. Bằng dữ liệu chéo từ 17 quốc gia MENA, Sassi và Goaied [17] đã tìm thấy tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê của khuếch tán CNTT được đo bằng ba chỉ số, đó là điện thoại di động, điện thoại truyền hình và internet với tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1960 - 2009. Sử dụng phương pháp véc tơ đồng kết hợp cho dữ liệu bảng, Pradhan và cộng sự [13] đã nghiên cứu bản chất của mối quan hệ nhân quả giữa cơ sở hạ tầng CNTT, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở 21 quốc gia châu Á trong giai đoạn 2001 - 2012. Họ kết luận rằng cả cơ sở hạ tầng CNTT và phát triển tài chính đều là vấn đề quyết định đến tăng trưởng kinh tế dài hạn của các nước châu Á. Bằng cách tiếp cận dữ liệu bảng động và tĩnh trong khuôn khổ mô hình tăng trưởng, Aghaei và Rezagholizadeh [17] nhận thấy rằng cứ tăng 1% trong đầu tư CNTT đã dẫn đến tăng trưởng kinh tế 0,52% tại các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác Hồi giáo OIC trong giai đoạn 1990 - 2014. Pradhan và cộng sự [14] áp dụng các phương pháp véc tơ đồng kết hợp cho dữ liệu bảng và kiểm định quan hệ nhân quả Granger để xác định bản chất và hướng của mối quan hệ nhân quả hiện có giữa cơ sở hạ tầng CNTT cả băng thông rộng và người dùng Internet và tăng trưởng kinh tế. Họ đã sử dụng dữ liệu từ các quốc gia G-20 trong giai đoạn 2001-2012 và họ đã xem xét một số biến kiểm soát quan trọng có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, như chỉ số giá tiêu dùng, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động và tổng vốn gộp trong nước. Các kết quả đã cho thấy mối liên hệ tích cực giữa cơ sở hạ tầng CNTT cả băng thông rộng và internet và tăng trưởng kinh tế. Theo các tác giả này, cần chú ý đặc biệt đến việc áp dụng băng thông rộng và người dùng internet để tăng cường tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển. Sepehrdoust [18] đã thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm bằng phương pháp GMM để điều tra tác động của phát triển CNTT và tài chính đối với tăng trưởng kinh tế của các nước xuất khẩu xăng dầu OPEC trong giai đoạn 2002 - 2015. Kết quả cho thấy, 1% tăng của chỉ số phát triển tài chính và các biến CNTT đã dẫn đến mức tăng trưởng kinh tế lần lượt là 0,048% và 0,050%. Những kết quả này phù hợp với kết quả trước đó được tìm thấy bởi Nasab và Aghaei [11] trên các nước OPEC trong giai đoạn 1990 - 2007. Mặt khác, nghiên cứu thực nghiệm điều tra mối quan hệ giữa khuếch tán CNTT và tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển [4], cho thấy rằng khuếch tán CNTT có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế theo cách tiêu cực, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Họ giải thích mối quan hệ tiêu cực này bởi thực tế rằng CNTT-TT có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm và thị trường lao động thông qua việc giảm hoặc loại bỏ các vị trí cho lao động phổ thông, làm tăng thất nghiệp. Ngoài ra, CNTT tạo điều kiện thu hút và mở cửa thị trường mới cho các nước phát triển với chi phí của các nước đang phát triển. Nó cho phép các nước phát triển nâng cao sự thống trị của họ trên thị trường quốc tế bằng cách khai thác lợi thế cạnh tranh của họ so với các nước đang phát triển ít cạnh tranh hơn. Dewan và Kraemer đã sử dụng dữ liệu từ 36 quốc gia trong giai đoạn 1985 -1993, họ thấy rằng chỉ những nước phát triển mới được hưởng lợi từ hiệu quả tích cực của đầu tư CNTT đối với tăng trưởng kinh tế. Họ giải thích kết quả này bằng mức đầu tư CNTT thấp và thiếu các điều kiện môi trường phù hợp như cơ sở hạ tầng cơ bản, thực tiễn kinh doanh và các chính sách phù hợp của chính phủ ở các nước đang phát triển. Pohjola [15] đã không tìm thấy bất kỳ mối tương quan có ý nghĩa thống kê nào giữa đầu tư CNTT và tăng trưởng kinh tế trong trường hợp 43 quốc gia từ 1985 đến 1999. Theo tác giả, kết quả này là do khả năng tiếp cận công nghệ truyền thông và công nghệ lạc hậu ở nhiều nước đang phát triển. Trong một nghiên cứu khác, Lee và cộng sự nhận thấy rằng CNTT-TT có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế chỉ đối với các nước mới công nghiệp hóa chứ không phải các nước đang phát triển khu vực Đông Á. Các kết quả tương tự đã được Papaioannou và Dimelis [12] tìm thấy bằng cách sử dụng phương pháp GMM và mô hình tác động cố định cho 42 quốc gia đang phát triển và phát triển trong giai đoạn 1993 - 2001. Họ thấy rằng các khoản đầu tư vào CNTT chỉ thúc đẩy tăng trưởng ở các nước phát triển. Do đó, các tác giả cho rằng các nước đang phát triển nên thực hiện các biện pháp phù hợp để lấy lại vai trò tích cực của CNTT trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như tự do hóa chế độ thương mại, cải thiện nguồn nhân lực và áp dụng các chính sách thuận lợi của chính phủ. Pradhan và cộng sự [13] khẳng định rằng cả cơ sở hạ tầng CNTT và phát triển tài chính đều không đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế dài hạn của các nước Tây Á, bao gồm các nhà sản xuất dầu mỏ Ả Rập giàu có. Điều này được giải thích bởi sự phụ thuộc lớn của các nền kinh tế này vào doanh thu từ dầu mỏ. Gần đây, Albiman và Sulong [2] đã kiểm tra tác động dài hạn của CNTT đối với tăng trưởng kinh tế ở khu vực SSA trong giai đoạn 27 năm 1990 - 2014. Họ phát hiện ra rằng các biến đại diện cho CNTT, chẳng hạn như đường dây điện thoại, điện thoại di động và internet, có tác động tuyến tính tích cực và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi họ xem xét phân tích hiệu ứng phi tuyến, họ thấy rằng sự thâm nhập hàng loạt của các biến số CNTT dường như làm chậm tăng trưởng kinh tế trong khu vực SSA. 3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bộ dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này được trích xuất từ Tổng cục Thống kê và cổng thông tin của Chính phủ báo cáo ICT. Dựa trên dữ liệu hàng năm của 63 tỉnh, thành phố ở Việt Nam, tác giả tổng hợp và tính toán dữ liệu cho 3 miền Bắc, Trung và Nam, từ năm 2009 - 2019. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của phổ biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 3 miền ở Việt Nam trong giai đoạn 2009- 2019. Để làm điều này, chúng tôi đã ước tính một mô hình tăng trưởng tiêu chuẩn dựa trên khung tăng trưởng cho dữ liệu bảng của Barro và Martin. Ngoài ra, mô hình này được áp dụng bởi một số nghiên cứu thực P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY Website Vol. 57 - No. 1 Feb 2021 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY nghiệm trước đây như [2, 17]. Phương trình sau mô tả mô hình tăng trưởng được thông qua trong nghiên cứu này G = α+ αG + αICT + αX + γ+ ε 1 Trong đó - i đại diện cho mỗi tỉnh, thành trong dữ liệu bảng và t chỉ khoảng thời gian. - G là biến phụ thuộc, đề cập đến Tổng sản phẩm quốc nội GDP thực tế bình quân đầu người của tỉnh thành i trong giai đoạn t, được sử dụng làm đại diện cho tăng trưởng. - G là biến trễ của GDP thực tế bình quân đầu người, biến độc lập này được đưa vào mô hình để kiểm tra sự hội tụ Theo Barro, 1998 - ICT là biến giải thích, đại diện cho công nghệ thông tin. Bao gồm số thuê bao cố định trên 100 dân TEL; số lượng thuê bao di động trên 100 dân MOB; số người dùng internet trên 100 dân INT. Sự khác biệt với các nghiên cứu thực nghiệm gần đây, bài báo bổ sung biến đại diện cho CNTT thứ tư là số lượng thuê bao băng rộng cố định trên 100 dân BBA. Trên thực tế nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng việc áp dụng băng thông rộng có ảnh hưởng sâu sắc đến tăng trưởng kinh tế, việc làm và khả năng cạnh tranh vững chắc. Do đó, các tỉnh thành có hệ thống băng thông rộng đã chứng minh kinh tế tăng trưởng cao hơn và tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn [14]. - X là biến kiểm soát đã được đưa vào mô hình để kiểm soát mọi đóng góp đáng kể của các biến này vào tăng trưởng kinh tế của các tỉnh, thành trong suốt thời gian nghiên cứu. Với tham chiếu với các nghiên cứu trước đây trong tổng quan tài liệu, các biến kiểm soát trong các ước lượng thực nghiệm bao gồm sự phát triển tài chính được hỗ trợ bởi tín dụng cho khu vực tư nhân FIN; chi tiêu tiêu dùng chung của chính phủ tính theo phần trăm GDP GOV; mức độ mở của nền kinh tế của một quốc gia OPEN; và GCF là vốn đầu tư trong nước được tính bằng sự hình thành vốn gộp. Tất cả những giá trị này được biểu thị bằng phần trăm GDP. Ngoài ra, biến kiểm soát tỷ lệ lạm phát INF được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng được đưa vào mô hình. Các biến độc lập và biến giải thích đã được chuyển đổi thành logarit tự nhiên của chúng để sử dụng trong phân tích kinh tế lượng. - α là hằng số. α là hệ số được ước tính để đánh giá bất kỳ tác động tiềm năng độ trễ của GDP thực tế trên đầu người ở mức hiện tại; dự kiến sẽ có ý nghĩa thống kê để xác minh thông số động của mô hình của chúng tôi. - α là hệ số được ước tính để đánh giá bất kỳ tác động đáng kể nào của các biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh thành trong thời gian nghiên cứu. - α đại diện cho hệ số được ước tính cho mỗi biến kiểm soát X. - γđại diện cho các yếu tố cụ thể không quan sát được cho mỗi tỉnh, thành phố trong mẫu và sai số ngẫu nhiên được biểu thị bằng ε. Để ước lượng hệ số của các biến trong phương trình 1, tác giả sử dụng phương pháp GMM thay vì các phương thức dữ liệu bảng truyền thống, chẳng hạn như mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên và mô hình bảng hiệu ứng ngẫu nhiên. Theo Arellano và Bond, Arellano và Bover, sử dụng phương pháp GMM có thể cho phép chúng ta tránh các vấn đề về tác động cụ thể, tương quan chuỗi và biến nội sinh. Hơn nữa, mô hình tăng trưởng được áp dụng trong nghiên cứu công thức 1 bao gồm một biến phụ thuộc bị trễ để xác định biến động của biến phụ thuộc. Nghĩa là, GDP bình quân đầu người thực tế trước đó G có thể ảnh hưởng đến GDP bình quân đầu người hiện tại. Ngoài ra, các biến độc lập được sử dụng trong mô hình của chúng tôi có thể có vấn đề về tính nội sinh, đó là sự khác biệt để giải quyết bằng các phương pháp dữ liệu bảng truyền thống. Đặc biệt, phương pháp GMM có thể được áp dụng trong quy trình một bước hoặc hai bước. Ước lượng hai bước sử dụng phần dư thu được từ ước lượng bước đầu tiên để xây dựng ma trận hiệp phương sai nhất quán có trọng số khi các giả định về tính độc lập và tính đồng nhất đối với các tham số ước lượng không vững. Khác với các nghiên cứu trước đây [2, 21] thường sử dụng phương pháp GMM một bước, nghiên cứu này sử dụng GMM hai bước. 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Nghiên cứu hiện tại đã điều tra ảnh hưởng của khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 3 miền của Việt Nam trong giai đoạn 2009 -2019 bằng cách sử dụng mô hình GMM hai bước Phương trình 1. Các kết quả liên quan đến 3 miền Bắc, Trung và Nam được trình bày trong bảng 1 ÷ 4. Nghiên cứu đã thực hiện một số kiểm định thống kê để kiểm tra ước lượng vững của tất cả các ước lượng có được từ việc áp dụng mô hình GMM trong nghiên cứu này. Đầu tiên, hệ số phóng đại phương sai VIF được sử dụng để phát hiện các vấn đề đa cộng tuyến. Trong tất cả các ước lượng bảng 1, 4, các giá trị VIF thấp nhỏ hơn 2,5 đã được tìm thấy, điều này cho thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến cao giữa các biến giải thích. Kết quả này cũng được xác định bằng kiểm định tương quan Pearson chỉ ra sự không tồn tại của mối tương quan cao giữa các biến độc lập được đưa ra trong các ước lượng. Ngoài ra, kết quả của kiểm định Arellano và Bond về mối tương quan chuỗi bậc một và bậc hai trong sai phân bậc một và kiểm định Sargan về các hạn chế xác định được báo cáo cho tất cả các ước tính được trình bày trong bảng 3. Tác giả thấy rằng thử nghiệm Arellano và Bond chấp nhận giả thuyết không H0 rằng các sai số trong hồi quy sai phân bậc một cho thấy không có tương quan chuỗi bậc hai 2, cho thấy không có sai sót trong mô hình. Ngoài ra, kiểm định Sargan bác bỏ giả thuyết không H0 cho rằng mô hình ít biến là hợp lệ trong mô hình GMM, điều đó có nghĩa là các công cụ được xác định chính xác cho tất cả các ước lượng. Để đạt được kết quả này, tác giả đã tiến hành kiểm định Hansen về việc xác định giới hạn mô hình, kết quả chỉ ra rằng bộ công cụ trong mô hình là hợp lệ. XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 Bảng 1. Tác động của TEL đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,9371***0,0160,0424 0,0950,9173***0,019TEL - 0,0073***0,001- 0,0266**0,012- 0,0039 0,003FIN 0,0603** 0,0040,0624** 0,0280,0546***0,007GOV 0,0121* 0,0050,0108***0,0340,0114***0,005OPEN 0,0250***0,0040,0913***0,0130,0263** 0,008INF - 0,0075***0,001- 0,0009* 0,007- 0,0035**0,002GCF 0,0476* 0,0050,0456** 0,0020,0423***0,007Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0020 0,1835 0,3344 0,0228 0,6282 Kiểm định Sargan p-value 0,2335 0,9291 0,1766 Lưu ý Các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1% được ký hiệu lần lượt là *, ** và ***. Các sai số chuẩn đ ược báo cáo trong ngoặc đơn bên cạnh các ước tính chính xác. Tất cả các giá trị được dựa trên công cụ ước lượng theo phương pháp mô men tổng quát GMM hai bước. Bảng 1 cho thấy các kết quả thực nghiệm thu được từ ước lượng của mô hình trong phương trình 1 khi xem xét TEL, được đo bằng số thuê bao điện thoại cố định trên 100 cư dân, như là một đại diện cho biến công nghệ thông tin. Theo đó, hiệu ứng của điện thoại cố định TEL là tiêu cực và có ý nghĩa thống kê đối với dữ liệu bảng của 3 miền Bắc, Trung và Nam. Những điều này phù hợp với kết luận trong nghiên cứu của Sassi và Goaied [17], Wamboye và cộng sự [21]. Tác động tiêu cực của điện thoại cố định đối với tăng trưởng kinh tế có thể được giải thích là do việc tiếp tục đầu tư vào điện thoại cố định mang lại hiệu quả kinh tế kém ở các miền, dẫn đến tỷ lệ đầu tư của đường dây điện thoại thấp hơn [2]. Bên cạnh đó do tác động của hiệu ứng thay thế, điện thoại cố định đã được thay thế bằng điện thoại di động là nguyên nhân là do sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng về điện thoại cố định [3]. Bảng 2 cho thấy kết quả thực nghiệm được tìm thấy khi xem xét MOB, được đo bằng số lượng đăng ký di động trên 100 cư dân, đại diện cho biến CNTT. Các kết quả được trình bày liên quan đến các các miền Bắc - Trung - Nam trong giai đoạn 2009 - 2019. Bảng 2 chỉ ra rằng điện thoại di động MOB có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong tất cả các miền. Tuy nhiên, tác động mạnh mẽ và đáng kể hơn đã được tìm thấy đặc biệt ở Miền Bắc +7,08% và Miền Trung 3,33%, hiệu ứng này thấp hơn ở khu vực Miền Nam +2,4%. Kết quả cho thấy rằng trong giai đoạn gần đây 2009-2019, điện thoại di động đã trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các miền của Việt Nam. Những điều này củng cố những nỗ lực của nhiều miền để tăng tốc thâm nhập của điện thoại di động. Chúng tạo điều kiện cho mọi người có quyền truy cập vào công nghệ di động để tăng tốc độ lan rộng và sử dụng các dịch vụ tài chính di động. Do đó, thông qua thâm nhập di động cao hơn, các hoạt động thương mại, dịch vụ, thanh toán sẽ thực hiện dễ dàng và nhanh chóng hơn, các khách hàng của các ngân hàng sẽ dễ dàng tiếp cận tiền gửi và cho vay hơn và thực hiện các giao dịch tài chính khác nhau, chẳng hạn như lưu trữ và chuyển tiền và thanh toán hóa đơn. Bảng 2. Tác động của MOB đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,6571 *** 0,0110,0749 0,1110,8171***0,045MOB 0,0708 *** 0,0040,0333***0,0010,0240* 0,008FIN 0,0401* 0,0020,0851* 0,0440,0373***0,007GOV 0,0138* 0,0040,1401***0,0190,0133** 0,006OPEN 0,0037 0,0040,0949* 0,0530,0156* 0,009INF - 0,0060 ***0,001- 0,0052 0,006- 0,0018 0,001GCF 0,0469 *** 0,0050,0495***0,0010,0429 ***0,007Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0151 0,1773 0,0053 0,2602 0,0287 0,6395 Kiểm định Sargan p-value0,2192 0,9642 0,2109 Ngoài ra, thông tin tốt hơn thông qua điện thoại di động có thể cải thiện đáng kể việc thu thập thông tin cho người gửi tiền và các tổ chức tài chính và tăng cường giám sát. Sự thâm nhập điện thoại di động cao hơn thực sự làm giảm các hạn chế và chi phí vật lý về khoảng cách và thời gian [3, 21]. Bảng 3. Tác động của INT đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,5379***0,020- 0,1177 0,1140,7234***0,039INT 0,0391***0,0020,0463** 0,0190,0310***0,005FIN 0,0295***0,0040,0571* 0,0330,0214***0,008GOV 0,0183** 0,0030,1285***0,0320,0135** 0,006OPEN 0,0192***0,0040,0777***0,0170,0288***0,008INF - 0,0003***0,001- 0,0058* 0,007- 0,0028**0,001GCF 0,0404***0,0020,0461** 0,0040,0418***0,007Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0215 0,1001 0,0008 0,9095 0,0279 0,6637 Kiểm định Sargan p-value 0,2510 0,9517 0,1745 P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY Website Vol. 57 - No. 1 Feb 2021 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY Bảng 4. Tác động của BBA đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,7781*** 0,0054 0,8546*** 0,027BBA 0,0153*** 0,0075*** 0,002FIN 0,0252*** 0,0040,0421** 0,0280,0351*** 0,007GOV 0,0137* 0,0040,0156*** 0,0181*** 0,005OPEN 0,0289***0,0289*** 0,008INF 0,0023** 0,0029* 0,002GCF 0,0425** 0,0405* 0,0566*** 0,008Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0043 0,1936 0,0002 0,8369 0,0215 0,6318 Kiểm định Sargan p-value 0,2373 0,9803 0,1176 Bảng 3 và 4 cho thấy kết quả thực nghiệm được tìm thấy khi xem xét tương ứng INT, đó là số người dùng internet trên 100 dân và BBA là số lượng người đăng ký băng thông rộng được xác định trên 100 dân. Việc sử dụng internet INT và sử dụng băng thông rộng BBA của có tác động tích cực và có ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế trong tất cả các tỉnh, thành của các miền ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng việc sử dụng internet sẽ cải thiện tăng trưởng kinh tế bằng cách thúc đẩy sự phát triển và áp dụng các quá trình đổi mới và từ đó thúc đẩy cạnh tranh dẫn đến việc phát triển các sản phẩm, quy trình và mô hình kinh doanh mới. Ngoài ra, nghiên cứu này phù hợp với hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cho thấy sự hiện diện của tác động tích cực của internet đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển [17, 21]. Các kết quả được tìm thấy cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đó cho thấy rằng các quốc gia có băng thông rộng đã chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế cao hơn [14]. Tuy nhiên, bảng 3 chỉ ra rằng tác động tích cực của việc sử dụng internet đối với tăng trưởng kinh tế là quan trọng hơn ở miền Trung +4,63% so với miền Bắc +3,91%, miền Nam +3,1%. Hơn nữa, Bảng 4 cho thấy việc áp dụng băng thông rộng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, mạnh hơn ở miền Trung +2,88% so với miền Bắc +1,53%, miền Nam +0,75%. Những điều này cho thấy sự hiện diện vượt trội ở miền Trung trong những năm gần đây so với miền Bắc và miền Nam về việc sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Xem xét các biến kiểm soát được đưa ra trong các ước lượng, kết quả cho thấy rằng sự phát triển tài chính FIND đã ảnh hưởng đáng kể đến sự tăng trưởng kinh tế của các miền trong suốt thời gian nghiên cứu. Hiệu ứng này là tích cực từ +4,21% đến +8,51% ở khu vực miền Trung; từ +2,52 đến 6,03 ở khu vực miền Bắc và ở khu vực miền Nam, từ +2,14% đến +5,46%. Trong tất cả các ước lượng từ bảng 1 ÷ 4, chi tiêu tiêu dùng của chính phủ GOV có tác động tích cực và mạnh mẽ đến GDP bình quân đầu người ở khu vực miền Bắc từ +12,1% đến +18,3%, trong khi tác động của nó là yếu hơn nhưng tích cực đối với khu vực miền Nam từ +11,4% đến +18,1%, ở khu vực miền Trung là +10,8% đến 15,6%. Kết quả cũng cho thấy, sự cởi mở thương mại OPEN đã tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở các miền trong thời gian nghiên cứu. Lạm phát INF có tác động tiêu cực và ảnh hưởng rất nhỏ dưới 1% đến tăng trưởng kinh tế của tất cả các miền trong mẫu nghiên cứu. Biến kiểm soát cuối cùng được giới thiệu trong các ước lượng là đầu tư trong nước GCF. Kết quả cho thấy nó có tác động tích cực và có ý nghĩa hơn 4% đối với tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là trong trường hợp ở Miền Nam. 5. KẾT LUẬN Trong nghiên cứu này, tác giả đã nghiên cứu ảnh hưởng của khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 63 tỉnh, thành được phân chia theo 3 miền Bắc, Trung và Nam trong giai đoạn 2009 - 2019. Mô hình tăng trưởng GMM gồm hai bước được sử dụng để khám phá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bốn biến CNTT điện thoại cố định TEL, điện thoại di động MOB, sử dụng internet INT và áp dụng băng thông rộng BBA. Kết quả cho thấy ngoại trừ điện thoại cố định, các công nghệ thông tin và truyền thông khác như điện thoại đi động, sử dụng internet và sử dụng băng thông rộng là những yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các vùng miền ở Việt Nam trong giai đoạn 2009 - 2019. Thật vậy, tác động tiêu cực của điện thoại cố định đối với tăng trưởng kinh tế cho thấy nhiều tỉnh, thành trong mẫu nghiên cứu không được hưởng lợi từ tiềm năng tăng trưởng của công nghệ viễn thông này. Điều này có thể là do khả năng chi trả cơ sở hạ tầng cần thiết để cài đặt và khuếch tán các đường dây điện thoại cố định trên tất cả các địa phương [2, 21]. Hơn nữa, kết quả này có thể được giải thích bởi thực tế là điện thoại di động là phương tiện thay thế cho điện thoại cố định ở các tỉnh, thành. Điều này đặc biệt đúng đối với các tỉnh miền Trung gần đây đã chứng kiến sự tăng trưởng nhanh chóng về tỷ lệ thâm nhập điện thoại di động. Giải thích này phù hợp với những phát hiện của chúng tôi. Cũng trong nghiên cứu ngày, kết quả cho thấy điện thoại di động có tác động tích cực nhất đối với tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành khu vực miền Trung trong giai đoạn nghiên cứu 2009 - 2019. Theo các nghiên cứu trước đây, kết quả nghiên cứu này xác nhận rằng việc sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng là một trong những yếu tố chính có liên quan đến phát triển kinh tế. Một phân tích sâu hơn cho thấy rằng sự vượt trội của các tỉnh thành khu vực miền Trung so với khu vực miền Bắc và khu vực miền Nam tồn tại qua thời gian nghiên cứu trong các lĩnh vực sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Một số hàm ý chính sách và khuyến nghị - Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, chính quyền và các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam nên tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng điện thoại di động vì nó hiệu XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 quả hơn về mặt chi phí và có lợi hơn so với điện thoại cố định, đặc biệt là ở khu vực miền Bắc và miền Nam. - Các nhà chức trách nên thiết kế các chính sách, giải pháp yêu cầu nâng cấp và mở rộng cơ sở hạ tầng CNTT hiện có để tăng tốc sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Nâng cao hơn nữa hiệu quả của chính phủ điện tử để thúc đẩy quản trị tốt và cải thiện hiệu quả công khai. - Cần có chính sách nhằm kích thích sự phổ biến của CNTT trong khu vực tư nhân thông qua một số can thiệp chính sách như giảm thuế, trợ cấp, thúc đẩy thương mại điện tử và phát triển các mối quan hệ đối tác tư nhân - công cộng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ viễn thông. Điều này rất quan trọng vì nó đã được chứng minh rằng các công nghệ mới này tích cực và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế bằng cách thúc đẩy sự phát triển và áp dụng các quá trình đổi mới và thúc đẩy cạnh tranh. - Ý nghĩa chính sách khác liên quan đến các biến kiểm soát được giới thiệu trong các ước lượng cũng cần được xem xét. Nhiều hành động nên được thực hiện nhằm phát triển lĩnh vực tài chính để giúp CNTT thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, Việt Nam nên tiếp tục nỗ lực tăng cường sự cởi mở của các nền kinh tế và ưu tiên phân bổ nguồn lực cho phát triển cơ sở hạ tầng CNTT để phát triển từ cuộc cách mạng CNTT-TT. Ngoài ra, họ nên ban hành các chính sách cung cấp môi trường pháp lý và thể chế thuận tiện hơn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tăng cường cạnh tranh công bằng trong lĩnh vực CNTT-TT và thúc đẩy các dịch vụ hỗ trợ internet và sự hiện diện của internet, bao gồm cả chính phủ điện tử và thương mại điện tử. - Cuối cùng, chính phủ nên áp dụng các chính sách cần thiết để kiềm chế mức tiêu dùng của chính phủ và tỷ lệ lạm phát để tránh tác động tiêu cực của chúng đối với tăng trưởng kinh tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Aghaei, Majid, Mahdieh Rezagholizadeh, 2017. The impact of information and commun ication technology ICT on economic growth in the OIC Countries. Environmental & Socio-Economic Studies, 17 255–76. [2]. Albiman, Masoud Mohammed, Zunaidah Sulong, 2016. The role of ICT use to the economic growth in Sub Saharan African region SSA. Journal of Science and Technology Policy Management 7 306–29. [3]. Andrianaivo, Mihasonirina, Kangni Kpodar, 2011. ICT, Fina ncial Inclusion, and Growth Evidence from African Countries, Working Paper No. 11/73, International Monetary Fund, IMF Working Paper. [4]. Aghion, Philippe, Peter Howitt, 1998. Endogenous Growth Theory. Cambridge MIT Press. [5]. Grimes, Arthur, Cleo Ren, Philip Stevens, 2012. The need for speed Impacts of in ternet connectivity on firm produ ctivity. Journal of Productivity Analysis 37 187–201 [6]. Gruber, Harald, Pantelis Koutroumpis, 2010. Mobile communica tions Diffusion facts and prospects. Communications and Strategies 77 133–45. [7]. Inklaar, Robert, Mary O’Mahony, and Marcel Timmer, 2005. ICT and Europe’s productivity performan ce Industry-level growth account comparisons with the United States. Review of Income and Wealth, 51 505–36. [8]. Koutroumpis, Pantelis, 2009. The economic impact of broadband on growth A simultaneous approach. Telecommunications Policy, 33 471–85. [9]. Lee Sang H., John Levendis, Luis Gutierrez, 2012. Telecommunications and economic growth An empirical analysis of Sub-Saharan Africa. Applied Economics, 44 461–69. [10]. Madden, Gary, Scott J. Savage, 1998. CE E telecommunications investment and economic growth. Information Economics and Policy, 10 173–195. [11]. Nasab, Ebrahim Hosseini, Majid Aghaei, 2009. The effect of ICT on economic growth Further evidence. International Bulletin of Business Administration, 10 46–56. [12]. Papaioannou, Sotiris K., Sophia P. Dimelis, 2007. Infor mation technology as a factor of economic development Evidence from developed and developing countries. Economics of Innovation and New Technology, 16 179–94. [13]. Pradhan, RudraP., Mak B. Arvin, Neville R. Norman, 2015. The dynamics of information and communications technolo gies infrastructure, economic growth, and fina ncial development Evidence from Asian countries. Technology in Society, 42 135–49 [14]. Pradhan, Rudra P., Mallik Girijasankar, Tapan P. Bagchi, 2018. Information communication technology ICT infrastructure and economic growth A causality evinced by cross-country panel data. IIMB Management Review, 30 91–103. [15]. Pohjola, Matti, 2002. The new economy Fac ts, impacts and politics. The Journal of Information Economics and Policy, 14 133–44. [16]. Roller, Lars-Hendrik, Leonard Waverman, 2001. Telecommunicatio ns infrastructure and economic development, a simulta neous equations approach. American Economic Review, 91 909–23. [17]. Sassi, Seifallah, Mohamed Goaied, 2013. Fina ncial development, ICTdiffusion an d economic growth Lessons from MENA region. Telecommunications Policy, 37 252–61. [18]. Sepehrdoust, Hamid, 2018. Impact of in formation and communication technology and financial development on economic growth of OPEC developing economies. Kasetsart Journal of Social Sciences. [19]. Solow, Robert M, 1956. A contribution to the theory of economic growth. Quarterly Journal of Economics, 70 65–94. [20]. Yousefi, Ayoub, 2011. The impact of information and communication technology on economic growth Evidence from developed and develo ping countries. Economics of Innovation and New Technology, 20 581–96. [21]. Wamboye, Evelyn, Kiril Tochkov, Bruno S. Sergi, 2015. Technology adoption and growth in sub-Saha ran African countries. Comparative Economic Studies, 57 136–67. [22]. World Bank, 2017. World Development Indicators. Washington, DC World Bank. AUTHOR INFORMATION Ha Thanh Cong Faculty of Business Administration, Hanoi University of Industry ResearchGate has not been able to resolve any citations for this study examines certain long-run relationships hypothesised to be present among per capita real GDP, information and communication technology ICT infrastructure, consumer price index, labour force participation rate, and gross fixed capital formation manifest in G-20 countries recorded for the 2001-2012 period. Using panel cointegration, the study finds that the variables are cointegrated and do not drift apart in the long run. Methodology using vector error correction models VECM further confirms that embellishment of ICT infrastructure – an apparent imperative in an economy's information technology IT policy formulation – for both fixed broadband and internet users causes a boost in the per capita GDP. Hamid SepehrdoustThe main objective of present study was to investigate the impact of information and communication technology ICT and financial development on the developing economies of the petroleum exporting countries OPEC for the period 2002–2015 using a panel-GMM type of growth model. The results extracted from the econometric model showed that an increment of one percent in the financial development index and ICT variables caused economic growth to increase by .048 and .050 percent, respectively. Moreover, the impact of variables such as inflation negative, active labor force growth positive, investment growth positive, and growth of gross fixed capital formation positive on the economic growth of the countries, were close to theoretical expectations. However, the impact of variables such as trade openness negative and government spending size positive on the economic growth of the selected countries did not support previous findings, perhaps because of the economic structural differences of the selected growth theories hypothesize economic growth processes as heavily dependent on investment in Information and Communication Technology ICT. However, the full empirical verification of this hypothesis still is an open task, particularly when growth is considered within selected countries such as the OIC countries. Furthermore, the conclusions derived from research concerning the causal relationship between ICT and economic growth is often sensitive to the research methodology employed. This paper employs dynamics and static panel data approach within a framework of growth model and apply them to the economy of OIC countries over the time period of 1990-2014. The estimates reveal a significant impact of investments in ICT on economic growth in the countries considered. The policy implication of this paper is that the OIC countries should design specific policies for promoting investment in Mohammed Albiman Zunaidah SulongPurpose This paper aims to examine the long run impact of information and communication technology ICT on economic growth in the Sub Saharan African SSA region. The direct impact of ICTs use was examined for a 27-year period 1990-2014, before the Millennium Development Goals MDGs era 1990-1999 and during the MDGs era 2000-2014. Second and third objectives examined the nonlinear effect of ICT in the economic growth and their threshold values, respectively. The main growth enhancing transmission channels of ICT use were also looked at. Design/methodology/approach The study uses panel method technique of system generalist method of moment. The data period was collected from the years 1990-2014 from 45 SSA countries. The three main proxies of ICT are fixed telephone lines, mobile phone users and internet users per 100 inhabitants. Findings For the direct impact analysis, mobile phone and internet were found to have triggered economic growth. However, for nonlinear effect analysis, mass penetration of ICT proxies seems to slow economic growth. The threshold analysis showed a penetration rate threshold of per cent for both mobile phone and internet, and 5 per cent for fixed telephone line before economic growth gets triggered. Finally, the results indicated that, except for financial development, human capital, institutional quality and domestic investment were the main growth enhancing transmission channels of ICTs use in the economy. Practical implications From a policy perspective, results suggest SSA region to open more doors for investment in technology to ensure sustainable development. Such policy has to focus on investment into main transmission channels of ICT, namely, human capital, institutional quality and domestic investment. The policymakers have to ensure that penetration of mobile phone, fixed telephone and internet is met by improvement in human capital, institutional quality and domestic investment. Moreover, to fully use the potential of ICT, improving the financial sector is highly recommended. Originality/value In SSA, studies that address the impact of ICT on economic growth was almost non-existent, especially on its nonlinear effect and main transmission channels. While few studies have examined the direct impact of ICT, this study extended the scope by including the main growth enhancing transmission channels and nonlinear effect of ICT on SSA economies using recent study analyzes the relationship between information and communication technologies ICTs and labor productivity growth in sub-Saharan Africa over the period 1975–2010. The results show that fixed-line and mobile telecommunications have a positive and significant impact on growth after penetration rates reach a certain critical mass. The thresholds are identified using nonparametric methods. Penetrations rates of between 20% and 30% for telephones and 5% for internet usage trigger increasing returns. FDI and openness are found to improve productivity and to help ICTs boost growth. Financial development serves as a possible transmission channel for the growth-enhancing effects of Hosseini Nasab Majid AghaeiEconomic growth theories predict that economic growth is driven by investments in Information and Communication Technology ICT. However, empirical studies of this prediction have produced mixed results, depending on the research methodology employed and the geographical configuration considered. To provide yet a further test, this paper employs a Generalized Method of Moments GMM within the framework of a dynamic panel data approach and applies it to the economy of OPEC member countries over the time span of 1990-2007. The estimates reveal a significant impact on economic growth of investments in ICT in the OPEC member countries. This implies that if these countries seek to enhance their economic growth, they need to implement specific policies that facilitate investment in P. Pradhan Mak ArvinNeville R. NormanThis paper investigates causal relationships between information and communications technologies ICT infrastructure, financial development, and economic growth in Asian countries over the twelve-year period 2001–2012. Using panel cointegration techniques, our empirical results show these variables are cointegrated, with a myriad of short-run and long-run causal links between ICT infrastructure and economic growth, between financial development and economic growth, and between ICT infrastructure and financial M SolowI. Introduction, 65. — II. A model of long-run growth, 66. — III. Possible growth patterns, 68. — IV. Examples, 73. — V. Behavior of interest and wage rates, 78. — VI. Extensions, 85. — VII. Qualifications, YousefiThis study examines whether, and to what extent, information and communication technology ICT has helped to improve economic growth. We adopt the traditional growth model as a framework to estimate contributions of labor, ICT, and non-ICT capital to economic growth in developed and developing countries. The estimates of the growth model by using time-series cross-country data of a total of 62 countries for the period of 2000–2006 reveal that economic growth effect of ICT differs across different income groups of countries. The paper concludes that ICT plays a major role in the growth of high and upper-middle income groups, but fails to contribute to the growth of the lower-middle income group countries. Such findings suggest that the level of investment in ICT is not the cause of slow growth in lower-middle developing countries as previously thought. Với sự phát triển không ngừng nghỉ, hiện nay công nghệ thông tin đã bao phủ khắp thế giới, trở nên thân thiết với con người. Vậy công nghệ thông tin ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta như thế nào? Hãy cùng mình tìm hiểu những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực mà nó mang lại nhé! Những lợi ích của công nghệ thông tin mang lại Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã mang lại cho con người rất nhiều lợi ích tuyệt vời sau đây Mua sắm dễ dàng hơn với sự phát triển của công nghệ thông tin Trước đây khi có nhu cầu mua sắm, người tiêu dùng phải trực tiếp đến cửa hàng, thì ngày nay bạn chỉ cần ngồi ở nhà và đặt mua. Bất kể là sản phẩm gì, từ quần áo, điện tử cho đến việc đi chợ… cũng có thể mua online. Chỉ cần vài cú click chuột, những sản phẩm ấy sẽ được giới thiệu đi kèm hình ảnh và cả đánh giá từ người dùng. Công nghệ thông tin phát triển giúp mua sắm dễ dàng hơn Di chuyển linh hoạt hơn với ứng dụng đặt xe. Các ứng dụng di chuyển nổi tiếng như Uber, Grab đã khẳng định thế mạnh của mình. Nhận thấy tính ưu việt của công nghệ này, các hãng taxi truyền thống cũng ra mắt những ứng dụng riêng bắt nhịp làn sóng mới. Nhờ áp dụng công nghệ để giảm thiểu các chi phí nhân sự như tổng đài, điều phối viên,… Ăn uống nhanh chóng, tiện lợi Giờ đây không khó để bạn tìm một món ăn ngon với mức giá hợp lý. Bạn chỉ việc ngồi tại nhà, đặt mua đồ ăn online và sẽ được giao hàng mang đến tận nơi. Bởi hiện nay các ứng dụng đặt thức ăn trực tuyến như Vietnammm, DeliveryNow,… đã bắt đầu bước vào cuộc sống của chúng ta. Ứng dụng cho phép người dùng lựa chọn hàng loạt các quán ăn, nhà hàng từ món Châu Á, Châu Âu, Việt Nam, cho đến các món ăn bình dân, đặc sản,… Chủ động việc học tập trên internet Công nghệ thông tin còn mang đến những lợi ích tuyệt vời cho việc học tập phát triển kiến thức và kỹ năng. Các ứng dụng học tập trực tuyến không những giúp bạn có thể chủ động về thời gian, chi phí mà còn phá vỡ rào cản về không gian và thời gian, giúp bạn học mọi lúc mọi nơi. Liên lạc, kết nối gần nhau hơn bởi sự phổ cập của thiết bị công nghệ Chỉ với một chiếc smartphone hay laptop là bạn có thể trò chuyện, trao đổi công việc với đối tác, khách hàng xuyên quốc gia. Vừa tiết kiệm được thời gian, thu hẹp khoảng cách mà còn dễ dàng xử lý những vấn đề quan trọng một cách đơn giản, nhanh chóng. Không những thế, bạn có kết nối với bạn bè, người thân dù đang cách xa nhau hàng ngàn cây số, giúp mối quan hệ trở nên thân thiết hơn. Bên cạnh mặt lợi ích thì sự phát triển của ngành công nghệ thông tin cũng có nhiều tác hại không mong muốn. Dưới đây là một số tác hại của công nghệ Gây mất ngủ Công nghệ thông tin đã ảnh hưởng đến đồng hồ sinh học của mỗi người. Các nhà khoa học nghiên cứu và chỉ ra rằng, ánh sáng có sắc tố màu xanh được phát ra từ các đồ dùng công nghệ như smartphone, tablet, laptop, desktop... có thể ngăn chặn cơ thể tiết ra hormone melatonin vào ban đêm. Công nghệ thông tin có nhiều tác hại nếu không sử dụng đúng cách Ánh sáng xanh này làm gián đoạn đồng hồ sinh học của bạn và khiến bạn không thể có được một thời gian biểu phù hợp. Điều này có thể gây mất ngủ từ đó làm giảm khả năng ghi nhớ của não bộ. Giảm trí nhớ khi sử dụng thiết bị công nghệ quá nhiều Bất kỳ một hành động nào trong quá trình làm việc trên mạng như nói chuyện, kiểm tra email, nhắn tin,…cũng có thể xóa toàn bộ thông tin đó trước khi chúng được lưu lại. Vì vậy, bạn không nên làm quá nhiều việc một lúc trên internet. Bên cạnh đó, làm việc với máy tính, hay dùng smartphone nhiều khiến con người bị thiếu ngủ, mệt mỏi dẫn đến hiện tượng, tình trạng quên mau hơn. Mất tập trung bởi vô vàn thứ hấp dẫn trên internet Đọc sách, học trực tuyến rất tiện lợi nhưng nó cũng có nhiều tác hại. Chẳng hạn khi bạn đọc một bài báo mà xung quanh có rất nhiều hình ảnh quảng cáo. Điều này khiến bạn nhanh chóng bị phân tâm và mất tập trung vào vấn đề mình đang đọc. Làm sao để hạn chế những ảnh hưởng xấu do công nghệ thông tin mang lại Nếu không áp dụng công nghệ thông tin vào cuộc sống, thì bạn đúng là kiểu người “quê mùa”. Tuy nhiên khi dùng, bạn cần kiểm soát tốt bản thân bằng cách - Hạn chế sử dụng internet vào những công việc vô ích như chơi game, xem phim hay theo dõi các chương trình truyền hình. Vì những việc này sẽ làm mất thời gian và còn gây ảnh hưởng đến thần kinh và mắt. - Rèn luyện kĩ năng tìm kiếm hiệu quả nguồn dữ liệu trên mạng và tham gia các nhóm tích cực, tiến bộ để tránh bị lôi kéo vào các cuộc bàn luận vô bổ. - Không truy cập những trang web có nội dung bạo lực, đồi trụy, phản động,... Nên có chính kiến rõ ràng để không bị lôi kéo bởi các nhóm hay tổ chức không minh bạch để tránh bị lợi dụng. Tăng cường hoạt động chia sẻ những thông tin dữ liệu hữu ích và vui chơi, giải trí lành mạnh.. Trên đây là những ảnh hưởng của công nghệ thông tin đến cuộc sống của con người, cũng như cách sử dụng công nghệ thông tin hiệu quả. Bài viết hi vọng đã cung cấp tin tức hữu ích cho bạn đọc. >> Đọc thêm Điểm sàn của ngành công nghệ thông tin những năm gần đây.

mặt tiêu cực của công nghệ thông tin